Thứ Năm, 28 tháng 9, 2017

8. HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI / MỘT THOÁNG CAO ĐÀI


ĐÔI NÉT VỀ
HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI
Đầu những năm 1930, ở làng Bất Nhị (nay thuộc xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) có một nhóm nhỏ thanh thiếu niên vốn là anh em, họ hàng đi vào Sài Gòn và sau đó được huấn luyện làm đồng tử tại thánh tịnh Đại Thanh (ở quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định), thuộc Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên. Hiện nay thánh tịnh đặt tại số 465/51 đường Nguyễn Văn Công, phường 3, quận Gò Vấp.
Tuân lệnh Ơn Trên, vào Thứ Hai 22-10-1934 (15-9 Giáp Tuất), nhóm này trở về quê nhà truyền đạo với trưởng đoàn là Trần Công Ban (1906-?). Bốn đồng tử là Lương Vĩnh Thuật (1918-1982), Trần Công Sĩ (1921-?), Lê Văn Qui (1917-1935), và Lê Văn Phụng (1915-1935). Thánh danh của bốn đồng tử theo thứ tự là Thanh Long, Xích Lân, Kim Qui, và Bạch Phụng; vì thế, cả nhóm có chung thánh hiệu là Tứ Linh Đồng Tử.
Giữa tháng 7-1935, sau khi Bạch Phụng và Kim Qui từ trần, mà Xích Lân không còn phù hợp với sứ mạng, Ơn Trên ban lệnh cho Trần Quang Châu (1915-2000) được làm đồng tử, thánh danh Bạch Hổ. Sinh ở làng Tứ Phú (nay thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), Bạch Hổ kết hợp với Thanh Long thành một cặp song đồng rất thần diệu cho sứ mạng truyền giáo ở Trung Kỳ trong hoàn cảnh triều đình Huế và thực dân Pháp không ngừng bách hại đạo Cao Đài.
Tháng 12-1934, kết quả đầu tiên của đoàn truyền giáo Cao Đài ở Trung Kỳ là thánh tịnh Thanh Quang ra đời (nay ở xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam), mở màn cho các thánh thất khác lần lượt mọc lên ở nhiều địa phương khác nhau trong các năm sau đó.
Trung tuần tháng 2-1948, theo lệnh Ơn Trên, một đại hội quy tụ đại biểu của Nam Ngãi Bình Phú (bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, và Phú Yên) tổ chức thành công, kết quả là hình thành Cơ Quan Truyền Giáo Trung Bộ, có thể xem là tiền thân của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài hiện nay.
Mặc dù mọi hoạt động truyền giáo Cao Đài ở Trung Kỳ đều bị nhà cầm quyền cấm chỉ hoàn toàn, nhiều thành tựu cùng với rất nhiều hy sinh mất mát quả thật đã góp phần to tát vào sự hình thành một cộng đồng Cao Đài đông đảo và đầy hào khí trên dải đất miền Trung vốn lắm khắc nghiệt về nhiều phương diện.
Để có được mùa màng đầy hoa trái như thế, cho tới giữa thế kỷ 20, rất nhiều tông đồ truyền giáo đã dũng cảm hy hiến cuộc đời các ngài cho lý tưởng Cao Đài. Một cách thiếu sót, tạm kể phương danh một số vị như: Cao Hữu Chí (1904-1953), Huỳnh Ngọc Trác (1898-1945), Lê Trí Hiển (1879-1943), Nguyễn Đán (1905-1958), Nguyễn Hồng Phong (1894-1947), Nguyễn Quang Châu (1912-1955), Trần Doãn Cơ (1912-1944, nữ), Trần Nguyên Chất (1893-1950), và Trần Nguyên Chí (1914-1957), v.v...
Sau hai thập niên không ngừng truyền giáo, vào Thứ Hai 28-11-1955 (15-10 Ất Mùi), lễ trí thạch xây dựng Trung Hưng Bửu Tòa được tổ chức trang trọng tại thành phố Đà Nẵng. Để có lễ khởi công ấy, Bảo Pháp Thanh Long phải lao tâm khổ tứ phối hợp chặt chẽ cùng kiến trúc sư Hoàng Hùng ở Sài Gòn mới hoàn thành được bản vẽ kiến trúc đúng theo thánh ý Đức Trần Hưng Đạo. Chẳng hạn, Thứ Ba 05-11-1955, trong đàn cơ tại thánh thất Từ Vân trên đường Nguyễn Huệ (nay là số 100 đường Thích Quảng Đức, quận Phú Nhuận), Đức Thánh Trần dạy rằng kiến trúc “phải có tinh thần thuần túy Việt Nam”, “trong và ngoài hoàn toàn dùng tiếng Việt”, “vẽ nét Việt, sơn màu Việt”, v.v...
Hai tuần sau, vào Thứ Bảy 19-11-1955, đàn cơ tại thánh thất Nam Thành (số 124-126 đường Nguyễn Cư Trinh, quận 1, Sài Gòn), Đức Thánh Trần duyệt bản vẽ kiến trúc lần chót và chấp thuận với lời khen ngợi Bảo Pháp Thanh Long. [Xem Phụ Bản 15.]


Chủ Nhật 08-7-1956 (01-6 Bính Thân), lễ khánh thành Trung Hưng Bửu Tòa được tổ chức rất trọng thể tại số 35 đường Nguyễn Hoàng (nay là 63 đường Hải Phòng, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng). Dịp này, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài chính thức thành lập với vị chủ trưởng tài đức là Huệ Lương Trần Văn Quế. Đồng thời, để tưởng niệm và tri ân các Thánh tử đạo, Linh Tháp và Nhà Báo Ân cùng được khánh thành tại La Hà (nay là một thị trấn thuộc huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi). [Xem Phụ Bản 16.]
Hiện thời, với tổng số gần 41.700 tín hữu hành đạo ở mười sáu tỉnh thành miền Nam, miền Trung, và Bắc Trung Bộ, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có bảy mươi mốt họ đạo và cơ sở đạo, hai thánh đường ở thành phố Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam) và thành phố Quy Nhơn (tỉnh Bình Định), hai nhà tu ở thành phố Tam Kỳ (một cho nam và một cho nữ), một tịnh đường trung tâm ở thành phố Đà Nẵng, gọi là Trung Tông Thánh Tịnh. [Xem Phụ Bản 16.]


Chức sắc Hội Thánh từ phẩm Lễ Sanh trở lên đều phải ăn chay trường một cách tinh nghiêm. Hàng ngày tập thiền song hành với trường trai tinh nghiêm là đặc trưng chung của Hội Thánh, phổ biến ngay cả trong phần đông tín chúng, chứ không riêng các cấp chức sắc, chức việc.
Lớn vào hạng thứ tư khi so sánh với tổng số tín đồ của các Hội Thánh khác, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài luôn luôn rất quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ tín chúng về giáo lý và tâm linh. Hội Thánh có truyền thống gây dựng thế hệ tiếp nối, từ thanh thiếu niên cho tới sinh viên. Hiện nay, giới trẻ năng động và đầy sinh lực của Hội Thánh có mặt ở hầu hết mọi họ đạo.
Ghi chú: Để tìm hiểu thêm về đạo Cao Đài, có thể tham khảo mười ba tập sách song ngữ Việt-Anh của Huệ Khải, ấn tống tại hai nhà xuất bản Tôn Giáo và Hồng Đức (Hà Nội) từ năm 2008 tới nay. Xem trang 77 ở cuối sách này. Ngoài ra, có thể truy cập các văn bản điện tử tại:

HUỆ KHẢI


 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.

7. CHÍN HỘI THÁNH CAO ĐÀI / MỘT THOÁNG CAO ĐÀI


ĐÔI NÉT VỀ
CHÍN HỘI THÁNH CAO ĐÀI HIỆN NAY
Trong những năm 1995-2000, Chính Phủ đã công nhận tư cách pháp nhân của chín Hội Thánh Cao Đài sau đây:
1. Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên Tòa Thánh Châu Minh đặt tại xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. (Thành phố Bến Tre của tỉnh Bến Tre cách Sài Gòn khoảng 85km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 51/QĐ/TGCP ngày 29-7-1995 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. [Xem Phụ Bản 9.]


2. Hội Thánh Cao Đài Chiếu Minh Long Châu Tòa Thánh Long Châu đặt tại xã Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành, thành phố Cần Thơ. (Thành phố Cần Thơ của tỉnh Cần Thơ cách Sài Gòn khoảng 170km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 1562/QĐ.CT.HC.96 ngày 27-7-1996 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Cần Thơ. [Xem Phụ Bản 9.]
3. Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo Tòa Thánh Ngọc Sắc đặt tại xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. (Thành phố Cà Mau của tỉnh Cà Mau cách Sài Gòn khoảng 347km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 39/QĐ/TGCP ngày 02-8-1996 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. [Xem Phụ Bản 10.]


4. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài Trung Hưng Bửu Tòa (thay vì gọi Tòa Thánh) đặt tại số 63 đường Hải Phòng, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. (Thành phố Đà Nẵng cách Sài Gòn khoảng 977km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 40/QĐ/TGCP ngày 24-9-1996 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. [Xem Phụ Bản 10.]
5. Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh Tòa Thánh Tây Ninh đặt tại thị trấn Hòa Thành, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. (Thành phố Tây Ninh của tỉnh Tây Ninh cách Sài Gòn khoảng 99km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 10/QĐ/TGCP ngày 09-5-1997 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. [Xem Phụ Bản 11.]


6. Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo Tòa Thánh Bến Tre đặt tại số 100C đường Trương Định, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. (Thành phố Bến Tre của tỉnh Bến Tre cách Sài Gòn khoảng 85km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 26/QĐ/TGCP ngày 08-8-1997 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. [Xem Phụ Bản 11.]
7. Hội Thánh Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý Tòa Thánh Ngọc Kinh đặt tại ấp Hòa An, xã Mong Thọ, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. (Trung tâm tỉnh Kiên Giang cách Sài Gòn khoảng 248km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 2363/1998/QĐ-UB ngày 08-7-1998 của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Kiên Giang. [Xem Phụ Bản 12.]


8. Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý có Tòa Thánh Chơn Lý đặt tại số 193 đường Nguyễn Trung Trực, ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. (Thành phố Mỹ Tho của tỉnh Tiền Giang cách Sài Gòn khoảng 70km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 16/2000/QĐ-TGCP ngày 14-3-2000 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. [Xem Phụ Bản 12.]
9. Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho Tam Quan Tòa Thánh Tam Quan đặt tại thị trấn Tam Quan, huyện Hoài Nhơntỉnh Bình Định. (Tỉnh Bình Định cách Sài Gòn khoảng 632km.) Tư cách pháp nhân của Hội Thánh được công nhận theo Quyết Định số 199/2000/QĐ-TGCP ngày 28-4-2000 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. [Xem Phụ Bản 13.]


10. Hai cộng đồng Cao Đài không là Hội Thánh
Ngoài chín Hội Thánh kể trên, còn có hai cộng đồng Cao Đài không tổ chức giống như Hội Thánh:
10.1. Cao Đài Chiếu Minh Tam Thanh Vô Vi (là một cộng đồng chuyên tu thiền, tịnh luyện) có Thánh Đức Tổ Đình đặt tại số 264, đường 30-4, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. (Thành phố Cần Thơ của tỉnh Cần Thơ cách Sài Gòn khoảng 170km) Tư cách pháp nhân của cộng đồng này được công nhận theo giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo của Ban Tôn Giáo Chính Phủ ngày 15-12-2009. [Xem Phụ Bản 14.]


10.2. Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo đặt tại số 171B đường Cống Quỳnh, quận 1, TpHCM. Cơ Quan do Ơn Trên thành lập năm 1965. Tư cách pháp nhân của Cơ Quan được công nhận theo Quyết Định số 301/QĐCN ngày 02-8-2000 của Ban Tôn Giáo Và Dân Tộc TpHCM. [Xem Phụ Bản 14.]
Khác với thánh thất, Cơ Quan không giữ sổ bộ đạo (ghi chép những người mới vào đạo) vì theo lệnh Ơn Trên, Cơ Quan không được làm lễ nhập môn.
Thành viên Cơ Quan vốn là người từ các họ đạo Cao Đài tự nguyện gia nhập vì tán thành và chấp nhận đường lối Cơ Quan là phổ thông giáo lý để góp phần thống nhất đạo Cao Đài. Hầu hết thành viên Cơ Quan đều ăn chay trường và tập thiền. Vị lãnh đạo đầu tiên của Cơ Quan cũng là vị chủ trưởng đầu tiên của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài: Huệ Lương Trần Văn Quế (1902-1980).

HUỆ KHẢI

 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.

6. THÀNH TỰU VÀ PHÂN LY / MỘT THOÁNG CAO ĐÀI


 THÀNH TỰU VÀ PHÂN LY
Kể từ đầu năm 1927 cho tới cuối thập niên 1930, bất chấp tài chánh thiếu hụt cũng như những gian khổ trên vùng đất rừng đang khai phá, Hội Thánh Cao Đài sơ khai ở tỉnh Tây Ninh dần dần đạt được nhiều thành tựu rất ý nghĩa, chẳng hạn (tạm kể một ít, không theo thứ tự thời gian):
- lập thành và ban hành một số luật đạo;
- xây dựng hệ thống hành chánh đạo tinh vi từ Tòa Thánh xuống các tỉnh, quận, xã, ấp;
- hệ thống hóa và chuẩn hóa nghi lễ;
- xuất bản một số kinh sách căn bản;
- tổ chức các khóa đào tạo chức sắc, chức việc;
- lập một trường học tiểu học dạy trẻ nhỏ miễn phí;
- lập được thánh thất đầu tiên tại Nam Vang (Cam Bốt) và rồi hình thành Hội Thánh Ngoại Giáo (La Mission Étrangère du Caodaïsme) tại đấy;
- lập được thánh thất đầu tiên tại Hà Nội, v.v…
Tuy nhiên, một quá trình tăng trưởng mau lẹ khó tránh khỏi những mâu thuẫn và xung khắc dần dà nảy sinh trong nội bộ Hội Thánh Tây Ninh. Vào những năm 1930, cực điểm của những bất hòa này dẫn đến vài trường hợp tách rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh để sau cùng hình thành vài Tòa Thánh, Hội Thánh ở một số tỉnh cách xa Tây Ninh. Ngoài ra còn có vài cộng đồng Cao Đài không tách ra từ Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, và rồi cũng trở thành Hội Thánh, có Tòa Thánh riêng ở miền Trung và miền Nam.
Suốt những năm từ 1935 đến 1972, một số nỗ lực cao quý và đầy nhiệt thành nhằm thống nhất đạo Cao Đài rốt cuộc đều không thành công. Bởi thế, đạo Cao Đài ngày nay vẫn còn trong thực trạng thiếu vắng một Hội Thánh duy nhất, một Tòa Thánh chung cho toàn đạo.

HUỆ KHẢI

 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.

5. KIẾN TẠO TÒA THÁNH TÂY NINH / MỘT THOÁNG CAO ĐÀI


KIẾN TẠO TÒA THÁNH TÂY NINH
Sáng Thứ Tư 23-02-1927, theo chỉ dẫn của Đức Lý Thái Bạch trong một đàn cơ hôm trước, hai ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, và ba vị tiền khai nữa cùng đi trên hai chiếc ô tô đến một cánh rừng cấm. Nhờ một người địa phương giúp, các ngài tìm thấy gần đó khoảnh rừng thuộc sở hữu của Aspar, kiểm lâm người Pháp, và thương lượng mua lại với giá mười bảy hay mười tám ngàn đồng Đông Dương.
Khi dời từ Gò Kén ra chỗ rừng mới mua, các tiền khai Cao Đài phải dựng thánh thất tạm. [Xem Phụ Bản 8.]


Lúc đầu việc khai hoang tập trung ở khoảnh rừng mua lại của Aspar. Sau đó, tuân lời dạy của Đức Lý Thái Bạch, các tiền khai xin phép chánh quyền tỉnh và được chấp thuận cho khai khẩn thêm khoảnh rừng gần bên để mở rộng khu vực Tòa Thánh. Trong quá trình khai hoang, hàng ngàn người Đàng Thổ (Khơ-me) lực lưỡng từ bên nước họ tình nguyện sang giúp sức.
Thứ Hai 28-02-1927, Đức Lý Thái Bạch dạy các tiền khai về vị trí xây dựng và kích thước Tòa Thánh. Bản vẽ kiến trúc Tòa Thánh do Đức Lý giáng cơ thực hiện trong cùng ngày ấy. Tuy nhiên, theo thánh ý Đức Chí Tôn, kích thước theo bản vẽ của Đức Lý đã phải thâu bớt lại để tiết giảm chi phí.
Do chiến tranh và thiếu hụt tài chánh, công cuộc xây dựng Tòa Thánh Tây Ninh phải kéo dài hai thập niên (1927-1947). Vài sự kiện đáng chú ý như sau:
- Thứ Bảy 28-6-1941: Lính Pháp chiếm đóng Tòa Thánh còn dang dở, bắt Hộ Pháp Phạm Công Tắc đày sang đảo Madagascar (châu Phi), và trục xuất hết thầy thợ ra khỏi Tòa Thánh.
- Thứ Sáu 30-8-1946: Phạm Hộ Pháp trở về Tòa Thánh. Sau đó việc xây dựng được tiếp tục.
- Thứ Sáu 24-01-1947: Công trình hoàn tất.
- Thứ Tư 29-01-1947: Quả Càn Khôn (đường kính 3,3 mét) được an vị tại Bát Quái Đài trong Tòa Thánh. Thiên Nhãn và các chòm sao được vẽ trên quả Càn Khôn.
- Thứ Ba 01-02-1955: Nhân lễ Vía Trời (mùng 9 tháng Giêng), Phạm Hộ Pháp khánh thành trọng thể Tòa Thánh.
Tòa Thánh Tây Ninh (thuộc Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh) tọa lạc tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, cách thành phố Tây Ninh khoảng bốn, năm cây số về hướng đông nam.
HUỆ KHẢI


 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.


4. KHAI MINH ĐẠI ĐẠO (1926) / MỘT THOÁNG CAO ĐÀI


 KHAI MINH ĐẠI ĐẠO (1926)
Bước chuyển tiếp giữa thời tiềm ẩn và sự kiện Khai Minh Đại Đạo trong lịch sử đạo Cao Đài là cuộc Phổ Độ Lục Tỉnh kéo dài một tháng tại Nam Kỳ.
1. Phổ Cáo Chúng Sanh
Mấy ngày sau sự kiện Khai Tịch Đạo, một tập sách nhỏ được xuất bản, nhan đề Phổ Cáo Chúng Sanh (14 trang, 15x24cm). Tuy không dày dặn, ấn phẩm này giới thiệu được một số điểm trọng yếu của nền tôn giáo mới. [Xem Phụ Bản 7.]
2. Phổ Độ Lục Tỉnh
“Lục Tỉnh” là tên gọi cũ, tuy người Pháp bấy giờ đã chia Nam Kỳ ra hai mươi tỉnh. Các tiền khai Cao Đài lập thành ba nhóm phổ độ. Nhóm một phụ trách chín tỉnh Nam Kỳ; nhóm hai, năm tỉnh; nhóm ba, sáu tỉnh.
Khởi sự từ Thứ Bảy 16-10-1926, sau một tháng nhiệt thành truyền bá nền đạo mới, mỗi nhóm đã độ được vài vạn người nhập môn Cao Đài. Trong số đó nhiều vị là những người danh giá trong xã hội, và các vị ấy mau chóng trở thành những bậc hướng đạo nòng cốt trong giai đoạn xây dựng Hội Thánh Cao Đài đầu tiên ở làng Long Thành (tỉnh Tây Ninh) cũng như phát triển đạo Cao Đài suốt mấy thập niên sau đó. Chủ Nhật 14-11-1926, các tiền khai Cao Đài kết thúc cuộc phổ độ Lục Tỉnh để tập trung về chùa Thiền Lâm, tiếp tục chuẩn bị ráo riết cho đại lễ Khai Minh Đại Đạo.
3. Thánh thất Thiền Lâm
Theo giấy phép ngày 15-7-1925 của chủ tỉnh Tây Ninh, chùa Thiền Lâm cất tại Gò Kén (nay tại số 5/11, ấp Long Trung, xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh). Trụ trì là Hòa Thượng Như Nhãn tức Thích Từ Phong.
Cuối tháng 8-1926, Hòa Thượng Như Nhãn bằng lòng cho các tiền khai đạo Cao Đài mượn chùa Thiền Lâm (cất dở dang) để làm thánh thất Thiền Lâm (cũng gọi thánh thất Gò Kén, thánh thất Từ Lâm). Kể từ đầu tháng 9-1926 các tiền khai Cao Đài dốc tiền của và tâm sức vào sửa sang thánh thất cả trong lẫn ngoài. Chùa Thiền Lâm (30x15m) ngày nay vẫn còn, cách thành phố Tây Ninh khoảng năm, sáu cây số, nằm bên phải đường 22B chạy về Sài Gòn.
4. Đại lễ Khai Minh Đại Đạo 1926
Theo chương trình, đại lễ Khai Minh Đại Đạo tiến hành trong ba ngày ba đêm, từ Thứ Năm 18 đến hết Thứ Bảy 20-11-1926 (14, 15, và 16-10 Bính Dần). Kể từ Thứ Tư 17-11, nhiều đoàn người bắt đầu đổ về Gò Kén (làng Long Thành, tỉnh Tây Ninh) để dự lễ tại thánh thất Thiền Lâm.
Lễ tấn phong các chức sắc đầu tiên của đạo Cao Đài diễn ra vào giờ Tý đêm Thứ Năm 18 rạng Thứ Sáu 19-11-1926 (đêm 14 rạng 15-10 Bính Dần) trong chánh điện thánh thất Thiền Lâm. [Xem Phụ Bản 7.] Các chức sắc mặc phẩm phục vàng, xanh, và đỏ của ba phái Thái, Thượng, Ngọc (theo thứ tự).
5. Pháp Chánh Truyền
Đêm Thứ Bảy 20-11-1926, trong đàn cơ tại chánh điện thánh thất Thiền Lâm, Đức Chí Tôn ban Pháp Chánh Truyền, quy định tám phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài, từ phẩm cao nhất là Giáo Tông cho tới phẩm thứ tám là Lễ Sanh. Đêm sau, Đức Chí Tôn quy định về việc công cử chức sắc từ phẩm Lễ Sanh lên tới Giáo Tông.
6. Kéo dài đại lễ tại thánh thất Thiền Lâm
Mỗi đêm, sau khi cúng thời Tý thì lập đàn cơ để Ơn Trên thâu nhận tín đồ. Trung bình mỗi đêm có khoảng một trăm người (hoặc nhiều hơn) xin nhập môn, nên đàn cơ phải kéo dài tới 2 hay 3 giờ sáng. Mỗi người nhập môn xong được cấp một giấy chứng nhận.
Vì dòng người từ các nơi vẫn không ngớt đổ về thánh thất Thiền Lâm, nên thay vì ba ngày ba đêm, cuộc lễ phải kéo dài đến ba tháng. Trong ba tháng đó có nhiều sự kiện quan trọng.
6.1. Giáo Tông Vô Vi
Vâng lệnh Đức Chí Tôn, Đức Lý Thái Bạch nhận trọng trách Giáo Tông Vô Vi từ Thứ Hai 29-11-1926.
6.2. Tân Luật
Thứ Hai 06-12-1926, Đức Chí Tôn dạy các tiền khai phải thường trực nơi thánh thất Thiền Lâm để lập Tân Luật, gồm ba phần: (a) Tịnh Thất Luật, quy định về tu tịnh; (b) Đạo Pháp Luật, quy định về việc cai trị trong đạo Cao Đài. (c) Thế Luật, quy định về đời sống tín đồ.
Sau hai phiên cãi luật, Tân Luật được Đức Chí Tôn phê chuẩn vào Thứ Hai 07-3-1927. Tân Luật được in lần đầu tiên tại nhà in Commerciale C. Ardin, Sài Gòn, 14 trang (15x24cm) và phát hành từ đầu tháng 6 năm 1927. [Xem Phụ Bản 7.]


6.3. Chữ Khí ở bàn thờ Hộ Pháp
Thứ Hai 13-12-1926, Đức Lý Thái Bạch dạy làm tấm nỉ dài (1,5x3m), thêu chữ Khí , và đặt ở bàn thờ Hộ Pháp, đối diện Thiên bàn. Đức Lý dùng đại ngọc cơ viết chữ Khí theo cách vẽ bùa (phù). Đúng một tuần sau (Thứ Hai 20-12), Đức Chí Tôn dạy hãy dùng nỉ đỏ, và dùng chỉ vàng thêu chữ Khí.
6.4. Pháp Chánh Truyền phái nữ
Thứ Tư 02-02-1927, Đức Lý Thái Bạch giáng đàn và lập Pháp Chánh Truyền cho nữ chức sắc Cửu Trùng Đài, từ phẩm Đầu Sư xuống tới Lễ Sanh. Tất cả nữ chức sắc đều mặc màu trắng, vì không chia thành ba phái Thái, Thượng, Ngọc.
6.5. Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Đài
Chủ Nhật 13-02-1927, Đức Chí Tôn ban Pháp Chánh Truyền cho Hiệp Thiên Đài. Trên hết có Hộ Pháp Phạm Công Tắc (chưởng quản chi Pháp), bên phải Hộ Pháp có Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư (chưởng quản chi Đạo), và bên trái Hộ Pháp có Thượng Sanh Cao Hoài Sang (chưởng quản chi Thế). Bên dưới ba phẩm này là Thập Nhị Thời Quân chia làm ba chi (Pháp, Đạo, Thế).
7. Hòa Thượng Như Nhãn đòi lại chùa
Mất đức tin vào nền tôn giáo mới và cũng do áp lực từ các Phật tử cho nên đầu tháng 12-1926, Hòa Thượng Như Nhãn nhất quyết đòi lại chùa Thiền Lâm.
Chùa Thiền Lâm trả lại cho Hòa Thượng Như Nhãn vào Thứ Tư 23-3-1927. Trước ngày ấy mọi tài sản của thánh thất đều phải chở hết về khoảnh rừng mới mua ở làng Long Thành (tỉnh Tây Ninh).
Cuộc thiên di nhọc nhằn này kết thúc thời gian Khai Minh Đại Đạo tại thánh thất Thiền Lâm, chánh thức khai diễn trong ba ngày ba đêm (18, 19, và 20-11-1926), và rốt cuộc đã kéo dài ba tháng (chưa tính thêm một tháng do trễ hạn trả chùa). Cuộc thiên di này còn đánh dấu một dấu mốc trong lịch sử đạo Cao Đài: thời kỳ kiến tạo Tòa Thánh Tây Ninh.

HUỆ KHẢI

 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.

3/8 MỘT THOÁNG CAO ĐÀI


ĐẠO CAO ĐÀI THỜI TIỀM ẨN (1920-1926)
Lịch sử đạo Cao Đài trải qua thời tiềm ẩn dài sáu năm (1920-1926) để chuẩn bị nhân sự khai Đạo và mọi điều kiện cần yếu khác cho cơ cấu một tôn giáo có quy củ.
1. Đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Thượng Đế: Ngô Văn Chiêu (1878-1932)
Ngài Ngô sinh ở quận Bình Tây, tỉnh Chợ Lớn. Tốt nghiệp collège Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn với bằng thành chung, ngài bắt đầu làm công chức từ năm 1899 tại Sài Gòn. Sau đó, rời Phủ Thống Đốc Nam Kỳ (Palais du Gouvernement de la Cochinchine), ngài lần lượt làm việc tại tỉnh Tân An (1909), tỉnh Hà Tiên (1920), và quận đảo Phú Quốc (1920). Trở về Sài Gòn ngài làm việc lần nữa ở Phủ Thống Đốc Nam Kỳ (1924), nghỉ hưu (1931), rồi về Cần Thơ sống những ngày cuối đời. Các mốc chủ yếu trong đời tu hành của ngài vào những năm 1920-1925 như sau:
1.1. Nghe hồng danh Cao Đài lần thứ nhất (1920)
Ở tỉnh Tân An khoảng tháng 1 hay 2 năm 1920, ngài Ngô lập đàn cầu cơ tại nhà, tiếp được một đấng xưng danh Cao Đài Tiên Ông.
1.2. Nghe hồng danh Cao Đài lần thứ hai (tháng 9-1920)
Tại tỉnh Hà Tiên, vào đêm trung thu (Chủ Nhật 26-9-1920), ngài Ngô hầu đàn cơ tại nhà một nhân sĩ là Hữu Lân Lâm Tấn Đức (1866-1934), bác của Đông Hồ Lâm Tấn Phác (1906-1969), danh sĩ đất Hà Tiên. Ơn Trên giáng, ban cho bốn câu thơ, mở đầu là hồng danh Cao Đài. [Xem Phụ Bản 2.]


1.3. Thọ pháp (1921)
Cuối năm 1920, trong một đàn cơ tại chùa Quan Âm trên núi Dương Đông (đảo Phú Quốc), một tiên ông ẩn danh dạy rằng nếu ngài Ngô thuận làm đệ tử thì tiên ông sẽ truyền đạo. Kể từ mùng 1 Tết Tân Dậu (Thứ Ba 08-02-1921), ngài ăn chay trường, và tu thiền theo pháp môn của tiên ông ẩn danh.
1.4. Thiên Nhãn xuất hiện hai lần (tháng 4-1921)
Tiên ông dạy ngài Ngô tìm một biểu tượng cho nền đạo mới. Ngài đề nghị chữ thập nhưng tiên ông dạy phải tìm một biểu tượng khác. Sau một tuần, ngài vẫn không thể nghĩ ra được gì.
Sáng Thứ Tư 20-4-1921, lúc tám giờ, ngài ngồi trên võng, phía sau dinh quận Phú Quốc, nhìn ra biển khơi, chợt thấy trước mặt hiện rõ một con mắt trái thật lớn, linh động, hào quang chói lọi. [Xem Phụ Bản 3.] Ngài sợ, lấy tay che mắt. Hồi lâu, bỏ tay ra nhìn, cảnh tượng vẫn còn. Ngài chắp tay, khấn xin tiên ông cho con mắt ấy biến đi, nếu như tiên ông muốn ngài thờ con mắt. Sau đó cảnh tượng mờ dần rồi mất hẳn. Tuy nhiên lòng còn phân vân, ngài chưa thực hiện lời hứa. Vài hôm sau, ngài lại mục kích một cảnh tượng y như vậy, và cũng chỉ sau khi khấn, hứa xin thờ con mắt cảnh tượng mới biến đi.


1.5. Nghe hồng danh Cao Đài lần thứ ba (tháng 4-1921)
Vài ngày sau khi con mắt xuất hiện lần thứ hai, ngài Ngô hầu đàn tại chùa Quan Âm. Tiên ông dạy ngài vẽ lại Thiên Nhãn (con mắt trái) như đã mục kích để thờ. Tiên ông xưng hồng danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, và dạy ngài gọi Đức Cao Đài bằng Thầy.
1.6. Nếp sống ẩn tu giữa Sài Gòn (1924-1925)
Thứ Ba 29-7-1924, ngài Ngô rời đảo Phú Quốc về Sài Gòn làm việc, và ẩn tu giữa chốn phồn hoa cho tới đầu năm 1926 mới được Đức Cao Đài Thượng Đế cho phép khởi sự truyền đạo.
2. Các ngài Cao-Phạm ở phố Hàng Dừa (Sài Gòn)
2.1. Ngài Cao Quỳnh Cư (1888-1929) và Hương Hiếu (1887-1971)
Ngài sinh tại làng Hiệp Ninh, tổng Hàm Ninh Thượng, tỉnh Tây Ninh. Năm 1925, ngài làm thơ ký cho Sở Hỏa Xa Sài Gòn, thuê nhà ở số 134 đường Bourdais (nay là đường Calmette, quận 1). Ngài kết hôn với cô Nguyễn Thị Hương (cũng gọi Hiếu, hay Hương Hiếu), sinh tại Đa Kao (quận 1, Sài Gòn).
2.2. Ngài Cao Hoài Sang (1901-1971)
Ngài sinh tại làng Thái Bình, tỉnh Tây Ninh. Học collège Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn, đậu bằng thành chung, ngài làm thơ ký cho Sở Thương Chánh Sài Gòn năm 1920. Ngài thuê nhà trên đường D’Arras (nay là đường Cống Quỳnh, quận 1), cách nhà ngài Phạm Công Tắc một căn.
2.3. Ngài Phạm Công Tắc (1890-1959)
Ngài sinh tại làng Bình Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tân An. Học collège Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn, ngài đậu bằng thành chung năm 1907. Năm 1910 ngài làm thơ ký Sở Thương Chánh Sài Gòn, đồng sở với ngài Cao Hoài Sang.
2.4. Thử dùng phương pháp xây bàn
Đêm Thứ Sáu 24-7-1925, tại nhà ngài Cao Hoài Sang trên đường D’Arras, các vị Cao-Phạm tập dùng phương pháp xây bàn (la table tournante) theo chỉ dẫn trong sách Thông Linh Học (Spiritisme) tiếng Pháp. Hai đêm đầu chẳng được kết quả gì. Đêm Chủ Nhật 26-7-1925, các vị tiếp được chơn linh Cao Quỳnh Tuân (thân phụ ngài Cư). [Xem Phụ Bản 4.]


2.5. Thất Nương
Đêm Thứ Năm 30-7-1925 tại nhà ngài Cao Hoài Sang, các vị tiếp được Thất Nương là một trong chín vị Tiên Nương phò giá Đức Phật Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu). Sau đó các vị hầu như đêm nào cũng cầu thỉnh được nhiều Đấng thiêng liêng khác và xướng họa thơ cùng các Đấng. Bà Cư (Hương Hiếu) ghi chép đầy đủ các thánh ngôn, thánh thi tiếp nhận được trong thời gian ấy.
2.6. Đức AĂÂ
Đêm Thứ Sáu 28-8-1925, tại nhà ngài Cư, các vị Cao-Phạm tiếp được một Đấng xưng danh AĂÂ. Mãi đến cuối tháng 12-1925 các vị mới biết ngài chính là Đức Cao Đài Thượng Đế.
Đêm trung thu (Thứ Sáu 02-10-1925), tuân lời Đức AĂÂ dạy, các vị thiết lễ Hội Yến Bàn Đào (tiệc chay) tại nhà ngài Cư để kính dâng Đức Diêu Trì Kim Mẫu (Phật Mẫu) và các Đấng thiêng liêng. Dịp này, các vị bắt đầu dùng đại ngọc cơ khi lập đàn thỉnh Tiên. Ngày nay, lễ Hội Yến Bàn Đào hàng năm vào đêm rằm tháng 8 trong đạo Cao Đài đều mô phỏng theo buổi lễ đầu tiên ấy, có thêm một số nghi thức.
2.7. Các vị Cao-Phạm trở thành đệ tử Cao Đài
Tuân lệnh Đức AĂÂ, các vị Cao-Phạm làm lễ vọng Thiên cầu Đạo vào đêm Thứ Tư 16-12-1925 (01-11 Ất Sửu) ở ngoài sân, trước nhà ngài Cư. [Xem Phụ Bản 5.] Từ đấy, các vị trở thành đệ tử Đức Cao Đài Thượng Đế (tá danh AĂÂ).


2.8. Ngài Lê Văn Trung (1876-1934)
Những đêm cầu Tiên ở phố Hàng Dừa được nhiều người biết và tìm đến. Trong số đó có ngài Lê Văn Trung, sinh tại làng Phước Lâm, tổng Phước Điền Trung, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Sau khi tốt nghiệp collège Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn (1894), ngài thi đậu thơ ký, làm việc tại Phủ Thống Đốc Nam Kỳ. Sau mười hai năm, ngài thôi việc để ra ứng cử và đắc cử Hội Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial de Cochinchine). Năm 1912 ngài được Chánh Phủ Pháp tặng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh hạng Năm (Chevalier de la Légion d’Honneur). Năm 1914 ngài được chọn làm nghị viên Hội Đồng Chánh Phủ Đông Dương (Conseil de Gouvernement de l’Indochine), bấy giờ thường gọi là Thượng Nghị Viện Đông Dương.
Ngoài các hoạt động nói trên, ngài còn làm kinh doanh sau khi thôi nghề công chức. Từ năm 1920 việc kinh doanh càng lúc càng suy kém, bốn năm sau thì hoàn toàn thua lỗ. Vì buồn phiền, ngài hút thuốc phiện. Họa vô đơn chí, thị lực ngài giảm sút, đôi mắt gần như mù.
Khoảng tháng 6-1925 ngài đến hầu đàn Chợ Gạo (nay ở khoảng ngã ba Phú Lâm và Hùng Vương, quận 6). Đức Lý Thái Bạch giáng đàn khuyên ngài lo tu hành. Ngài bắt đầu ăn chay, bỏ hút thuốc phiện, và thị lực dần dần phục hồi. Sau khi đàn Chợ Gạo ngưng hẳn, ngài hầu đàn tại nhà ngài Cao Quỳnh Cư vào Thứ Hai 11-01-1926 và được Đức Cao Đài Thượng Đế giáo hóa. Đúng một tuần sau, đàn cơ được lập nhà ngài ở Quai Testard, Chợ Lớn (nay là đường Châu Văn Liêm, quận 5). Đức Cao Đài lâm đàn thâu nhận ngài làm môn đồ.
2.9. Hiệp với ngài Ngô Văn Chiêu
Khoảng hạ tuần tháng 01-1926, Đức Cao Đài dạy các vị Cao-Phạm phải hiệp cùng ngài Ngô Văn Chiêu mở đạo Cao Đài, và phải kính ngài Ngô là Anh Cả. (Theo Tân Luật Cao Đài, Anh Cả tức là Giáo Tông.) Sau đó các vị được ngài Ngô chỉ dẫn nghi thức thờ phượng, nhất là cách sắp đặt bàn thờ (Thiên bàn) có thánh tượng Thiên Nhãn.
 2.10. Ngài Ngô tách khỏi các vị Cao-Phạm
Vào tháng 4-1926, Đức Cao Đài dạy ba vị Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, và Phạm Công Tắc đến báo cho ngài Ngô biết về lịnh may cho ngài thiên phục Giáo Tông. Tuy nhiên ngài Ngô từ tạ phẩm Giáo Tông vào Thứ Bảy 24-4-1926 và tách ra khỏi hoạt động ngoại giáo công truyền (phổ độ) của các vị Cao-Phạm để có thể xây dựng được nền tảng vững chắc cho nội giáo tâm truyền.
3. Khai Tịch Đạo
Để chuẩn bị lập tư cách pháp nhân của đạo Cao Đài, đêm Thứ Tư 29-9-1926, lúc 8 giờ, tại nhà tiền khai Nguyễn Văn Tường (1887-1939) ở Sài Gòn (nay là số 208 đường Cô Bắc, quận 1), có cuộc họp quy tụ hơn hai trăm bốn mươi chức sắc và tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài. Sau đó, tất cả hồ sơ được ngài Lê Văn Trung đích thân mang đến Phủ Thống Đốc Nam Kỳ gởi cho Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol vào Thứ Năm 07-10-1926. Sự kiện này (gọi là Khai Tịch Đạo) đã được thực hiện căn cứ theo Luật Hiệp Hội 01-7-1901 của Pháp, do Thủ Tướng Waldeck-Rousseau (1846-1904) ban hành. [Xem Phụ Bản 6.]


Ngay sau sự kiện Khai Tịch Đạo, các tiền khai Cao Đài liền truyền giáo khắp cả Nam Kỳ mà không cần một giấy phép nào của chánh quyền, căn cứ Điều 2 của Luật Hiệp Hội 1901 nói trên. Như vậy, sự kiện Khai Tịch Đạo đã kết thúc thời tiềm ẩn của đạo Cao Đài.

HUỆ KHẢI