Thứ Tư, 2 tháng 8, 2023

DỂ DUÔI

 

CHỮ VÀ NGHĨA: DỂ DUÔI

HUỆ KHẢI

1. Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes (1591-1660) soạn Phép Giảng Tám Ngày, song ngữ Latin và tiếng Việt đối chiếu (chia làm hai cột), xuất bản tại Rô-ma, nước Ý năm 1651. Trong “Ngày thứ bốn” (trang 127), Giáo Sĩ Đắc Lộ viết: “Vì chưng ta thấy nhều [nhiều] người lành nên thánh, khó khan [khăn], chịu khốn, chịu khó, [bị] người ta dể duôi cho đến già cả” ... (xem ảnh đính kèm).

Vậy, đây chính là cuốn sách chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam đã ghi nhận hai chữ dể duôi” (dấu hỏi).


2.
Cuốn tự vị (tự điển) Việt-Pháp đầu tiên (?) ghi nhận và giải thích hai chữ “dể duôi” là của giáo sĩ J.M.J., nhan đề Tự Vị An Nam – Pha Lang Sa. Dictionnaire annamite-français (Tân Định: Imprimerie de la Mission, 1877). Thật vậy, ở trang 191 (xem ảnh đính kèm), giảng nghĩa như sau:

DỂ. Mépriser, A. duôi, ngươi, Khinh . Mépriser, faire peu de cas de . . ., mésestimer, A.

Nghĩa là:

DỂ. Khinh miệt, coi thường, động từ chủ động (verbe actif). [Thí dụ:] Dể duôi, Dể ngươi, Khinh dể. Khinh miệt, coi thường, đánh giá thấp, động từ chủ động.


3. Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tome I (Sài Gòn: Imprimerie Rey, Curiol & Cie., 1895), của Huình Tịnh Paulus Của (và một nhóm cộng tác viên), là cuốn tự vị tiếng Việt đầu tiên do người Việt biên soạn.

Ở trang 228, Paulus Của ghi nhận mục từ Dể và mượn chữ (dị) nghĩa là dễ dàng để làm chữ nôm. Ông giảng “Dể” là “Khi bc, không coi ai ra cái gì.” Ông cho thêm ba từ đồng nghĩa: “Dể duôi; Dể ngươi; Khinh dể”.

4. Chưa thấy từ điển nào ghi nhận riêng lẻ chữ “duôi” như một mục từ, ngoại trừ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tome I.

Ở trang 251, để ghi chữ nôm cho “duôi”, Paulus Của mượn chữ (duy) nghĩa là chỉ có, và giảng như sau:

Duôi. [chữ nôm] Doi theo, dõi theo.

Duôi theo. id. [như trên]

Duôi duôi. Qua vậy, dừa theo. [Thí dụ:] Thầy nói duôi duôi, nó không sợ.

Dể duôi. Khinh dể.

Ghi chú: Ở trang 247, Paulus Của giảng “dừa theo” là “nương theo; thuận theo; coi tình ý mà theo”. Như thế, ông ghi sai chánh tả; lẽ ra là “vừa”, không phải “dừa”.

5. Paulus Của mượn hai chữ Nho để ghi chữ nôm “dể duôi” thì đúng y như Nguyễn Trãi (1380-1442). Thật vậy, Ức Trai Nguyễn Trãi sáng tác “Bảo Kính Cảnh Giới” 寶鏡警戒 (Gương Báu Răn Mình) gồm sáu mươi mốt bài thơ chữ nôm thất ngôn bát cú; trong đó, câu 5 của bài 53 viết là: “Bạn tác dể duôi đà phải chịu.” 伴索易唯它沛召 (Đã phải chịu sự coi thường của bạn cùng trang lứa.) Ở đây, Ức Trai mượn hai chữ Nho 易唯 (dị duy) để ghi chữ nôm “dể duôi”; trong đó, “dị” là dễ, dễ dãi, dễ dàng (dấu ngã); “duy” là chỉ, như “duy nhất” 唯一 (chỉ có một).

6. Tóm lại, “dể duôi” (dấu hỏi) có nghĩa là khinh thường, coi thường, coi rẻ, không xem là quan trọng; đồng nghĩa với “dể ngươi”. Thí dụ:

Chỉ vì một phút dể duôi mà trọn đời ân hận.

Phải tôn kính Trời Phật, Thánh Thần; chớ có dể duôi. (Cũng nói: Chớ có dể ngươi.)

Người tu hành không được dể duôi giới luật.

Kinh Sám Hối (444 câu thơ song thất lục bát) của Minh Lý Đạo có dùng hai chữ “dể duôi”:

Câu 105-106: Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng / Mà dể duôi sanh biến lăng loàn.

Câu 115-116: Cợt người ra dạ dể duôi / Sanh điều chích mích, đâu nguôi dạ hờn.

7. Trên đây là hai chữ “dể duôi” (dấu hỏi).

Ngoài ra còn có hai chữ “dễ duôi” (dấu ngã) chưa hề được từ điển tiếng Việt nào ghi nhận. Tuy nhiên các sư tăng Nam Tông, cũng gọi Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravāda) vẫn thường nói tới “dễ duôi” trong các bài thuyết giảng giáo lý.

Tham khảo một số bài giảng của quý sư Nam Tông, có thể tạm ghi nhận ba ý nghĩa thông dụng của “dễ duôi” như sau:

7.1. Dễ duôi là giải đãi, lười biếng, biếng nhác. Trái nghĩa với dễ duôi là tinh tấn.

7.2. Dễ duôi là nuông chiều, buông thả theo bản năng; không có ý chí kháng cự những đòi hỏi bất thiện của tham sân si hay thất tình lục dục; không biết chế ngự tánh kiêu căng, ngạo mạn của phàm ngã (bản ngã).

2.3. Không dễ duôi tức là luôn luôn ý thức kiểm soát (làm chủ) bản thân trong từng ý nghĩ (tư tưởng), lời nói, việc làm của mình để không phạm lỗi lầm, không tạo ba nghiệp xấu về ý, khẩu, và thân.

8. Mặc dù “dễ duôi” (dấu ngã) chưa từng được ghi nhận trong các từ điển tiếng Việt, nhưng không nên vì thế mà phủ nhận cách dùng hai chữ “dễ duôi” (dấu ngã) của Phật Giáo Nam Tông.

Cuối tháng 6-2023, Nguyễn Quang Thọ (sinh năm 1949) xuất bản Người Việt Nói Tiếng Việt (Nxb Tổng Hợp TpHCM, 384 trang 16x24cm). Trong sách này ông dẫn ra nhiều thành ngữ, tục ngữ, lời ăn tiếng nói quen thuộc trong dân gian xưa nay, nhưng chúng đều bị các nhà làm từ điển từ Bắc chí Nam bỏ sót.

Vậy, “dễ duôi” (dấu ngã) trót bị từ điển tiếng Việt bỏ sót thì chẳng phải là trường hợp cá biệt.

Nhiêu Lộc, 26-7-2023

Huệ Khải

tuần san CGvDT số 2404

tuần lễ từ 04-8 đến 10-8-2023