Thứ Tư, 19 tháng 6, 2019

71/1. NIÊN BIỂU HỒ BIỂU CHÁNH / HỒ BIỂU CHÁNH XƯA VÀ NAY



NIÊN BIU H BIU CHÁNH
“Ba chỉ nói với con rằng sự nghiệp của ba để lại cho các con hiện thời chỉ có một tấm gương thẳng ngay và trong sạch mà thôi. Ba ước mong các con noi theo tấm gương ấy mà lập thân. Theo con mắt của đời nay … thì tấm gương ấy dường như mất giá. Nhưng nếu con ngó xa ra một chút, thì con sẽ thấy phú quý tuy rực rỡ mà ít vững bền, còn đạo đức tuy êm đềm song vui vẻ.” ([1])
1884: Ngày 15-8, chào đời tại làng Bình Thành,([2]) tổng Hòa Lạc Thượng, tỉnh Gò Công, trong một gia đình nghèo. Trong giấy khai sanh ghi ngày 01-10-1885,([3]) họ và tên là Hồ Văn Trung (là con thứ năm trong số mười hai người). Có thêm tự Biểu Chánh,([4]) hiệu Thứ Tiên,([5]) bút danh Hồ Biểu Chánh.
Ông ni: Hồ Hữu Đức, có công lập làng, được tôn làm tiền hiền và thờ trong đình làng. Bà ni: Phan Thị Huệ.
Cha: Hồ Hữu Tạo (sinh năm 1857; mất ngày 30-9-1912, tức 20-8 Nhâm Tý), làm Thôn Trưởng trong Bàn Hội Tề,([6]) rồi lần lượt giữ các chức vụ: Hương Thân, Hương Chánh, Hương Sư, Hương Chủ, rồi Chánh Bái. Mẹ: Nguyễn Thị Kỷ (sinh năm 1858; mất ngày 09-02-1939, tức 21-12 Mậu Dần).
Vợ: Đào Thị Nhự (sinh năm 1894; mất ngày 30-8-1959, tức 27-7 Kỷ Hợi). Các con (năm trai, bốn gái):  Hồ Văn Kỳ Trân (trưởng nam, sinh năm 1911 tại tỉnh Chợ Lớn; mất năm 1981 tại Austin, Texas, Hoa Kỳ); Hồ Ngọc Ưởng (gái, sinh năm 1912 tại làng An Xuyên, tỉnh Cà Mau; mất năm 2005 tại Hoa Kỳ); ƒ Hồ Văn Minh Cảnh (nam, sinh năm 1914 tại làng Bình Đức, tỉnh Long Xuyên; mất năm 1946 tại tỉnh Trà Vinh); Hồ Văn Vân Anh (gái, sinh năm 1916 tại làng Bình Đức, tỉnh Long Xuyên; mất năm 2010 tại quận Gò Vấp, TpHCM); Hồ Ngọc Sương (gái, sinh năm 1922 tại tỉnh Chợ Lớn; mất năm 1955 tại tỉnh Gia Định); Hồ Văn Madeleine (gái, mất lúc mới sinh năm 1924 tại Sài Gòn); Hồ Văn Di Thuấn (nam, sinh năm 1928 tại quận Càng Long, tỉnh Trà Vinh; mất năm 1994 ở California, Hoa Kỳ); ˆ Hồ Văn Di Hinh (nam, sinh năm 1928 tại quận Càng Long, tỉnh Trà Vinh; mất năm 2002 tại Pháp). Di Thuấn và Di Hinh là anh em sinh đôi; Hồ Văn Ứng Kiệt (nam, sinh năm 1934 tại quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ; rớt máy bay tử nạn năm 1964 tại tỉnh Phú Yên).
1893-1897: Học chút ít chữ Nho với thầy giáo làng.
1898: Cha mẹ dời nhà về chợ Giồng Ông Huê (làng Vĩnh Lợi). Học chữ quốc ngữ và tiếng Pháp tại trường tổng Vĩnh Lợi.
Chợ Giồng Ông Huê (làng Vĩnh Lợi) nằm trên bờ sông Vĩnh Bình. Xưa ông Phan Văn Huê (qua đời 1895) đến lập nghiệp, khai phá và sở hữu nhiều ruộng đất ở làng Vĩnh Lợi. Ông cất chợ gần các giồng đất, nên gọi là chợ Giồng Ông Huê, gọi tắt là chợ Giồng. Vợ trước ông Huê là Lê Thị Vân, sanh con gái lớn là Phan Thị Huệ (là bà nội nhà văn Hồ Biểu Chánh).([7]) Chợ Giồng Ông Huê nay thuộc thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
Hồ Biểu Chánh có nhắc chợ Giồng trong tiểu thuyết Con Nhà Nghèo (1930): “… con gái của bà, là cô Ba Nhân, đã có chồng nên về ở theo bên chồng trong chợ Giồng Ông Huê.” trong tiểu thuyết Tơ Hồng Vương Vấn (1955): “Lúc ấy trong hạt Gò Công, tại chợ Giồng Ông Huê, mà bây giờ người ta gọi tắt là chợ Giồng, …”
1899-1902: Học trường tỉnh Gò Công, được học bổng ba năm.
1902-1903: Học collège de Mỹ Tho.([8])
1903-1905: Được học bổng lên Sài Gòn, theo học collège Chasseloup-Laubat.([9])
1905: Đậu bằng Thành Chung (Diplome de Fin d’Etudes).
1906: Thi đậu, làm ký lục ([10]) tại Phủ Thống Đốc Nam Kỳ (Sài Gòn),([11]) tòng sự tại Dinh Hiệp Lý (Direction des Bureaux du Gouvernement).([12])
1906-1909: Muốn viết văn kể chuyện trong nước cho đồng bào biết, do đó học chữ Nho ba năm.
Trong hồi ký Đời Của Tôi (về văn nghệ, bản đánh máy, viết tại Phú Nhuận, ghi ngày 24-12-1957), Hồ Biểu Chánh kể:
“Năm 1906 ra khỏi nhà trường, nhận thấy các ấn quán ở Sài Gòn mướn người dịch truyện Tàu và thơ chữ Nôm ra chữ quốc ngữ đặng in mà bán. Từ thành thị ra thôn quê, nhơn dân đua nhau mà đọc. Có vài tờ tuần báo cũng được người ta chú ý.
Thầm nghĩ, người mình mà biết chuyện bên Tàu không bổ ích cho bằng biết chuyện trong nước mình. Tính viết truyện văn vắn cho đăng vào mấy tờ tuần báo để đồng bào đọc thử. Viết khó khăn hết sức, vì thiếu Nho học nên không tìm ra lời mà tả trí ý cho người ta thông cảm được. Phải học chữ Nho. Trót ba năm, nhờ vài ông bạn lớn tuổi ban đêm làm ơn dạy giùm cho đọc được sách Tàu.” [Theo Thụy Khuê.] ([13])
1908: Ngày 18-01, kết hôn với Đào Thị Nhự (sinh ngày 12-8-1894, người Gò Công, con của Đào Văn Liễu, tự Thơm, và Nguyễn Thị Trừu).
1910: Tại Sài Gòn, viết:
- Tân Soạn Cổ Tích. In tại Imprimerie F.H. Schneider (1910).+ ([14])
- U Tình Lục (truyện thơ, thể lục bát). In tại Imprimerie F.H. Schneider (1910).+
Hồ Biểu Chánh kể: “Năm 1910, lựa những chuyện hay trong Tình SửKim Cổ Kỳ Quan [chữ Hán] dịch ra quốc văn nhan đề Tân Soạn Cổ Tích đặng tập viết cho suông. Cũng viết theo thể văn thượng lục hạ bát thành một truyện dài nhan đề U Tình Lục, chuyện tình của người trong nước mình. Hai quyển nầy được mấy bạn hùn tiền in thử thì không ai chê.” [Theo Thụy Khuê.]
1912: Tòng sự tại Tòa Bố tỉnh Cà Mau (Inspection de Cà Mau).([15])
Viết: Ai Làm Được (tiểu thuyết, viết lại tại Sài Gòn năm 1925.* In tại Xưa Nay (1926).+
Hồ Biểu Chánh kể: “Lúc đó cụ Trần Chánh Chiếu [Gilbert Chiếu, 1868-1919] cho xuất bản quyển Hoàng Tố Oanh Hàm Oan, là tiểu thuyết đầu tiên trong Lục Tỉnh, truyện tình tả nhơn vật trong xứ và viết theo điệu văn xuôi. Đọc quyển nầy, cảm thấy viết truyện dùng văn xuôi dễ cảm hóa người đọc hơn, bởi vậy năm 1912, đổi xuống làm việc tại Cà Mau mới viết thử quyển Ai Làm Được, là quyển thứ nhứt viết văn xuôi tại Cà Mau với nhơn vật cũng ở Cà Mau.” [Theo Thụy Khuê.]
1913: Tòng sự tại Tòa Bố tỉnh Long Xuyên. Viết:
- Chúa Tàu Kim Qui (tiểu thuyết, viết lại tại Sài Gòn năm 1922).* Đăng Công Luận Báo từ 04-8-1922 đến 30-3-1923. In tại imprimerie de l’Union (1926).+
Hồ Biểu Chánh kể: “Đổi lên Long Xuyên năm sau [1913] viết quyển thứ nhì, cũng văn xuôi, nhan đề Chúa Tàu Kim Qui, phỏng theo quyển Le Comte de Monte-Cristo [Bá Tước Monte-Cristo] của Alexandre Dumas [cha, Pháp, 1802-1870], viết điệu phiêu lưu, nghĩ có lẽ hấp dẫn hơn.” [Theo Thụy Khuê.]
- Vậy Mới Phải (truyện thơ).* Phóng tác theo Le Cid, bi kịch của Pierre Corneille (Pháp, 1606-1684).
Từ 1913 tới 1921, không viết thêm quyển tiểu thuyết nào, chỉ viết báo, soạn kịch. Trong hồi ký Đời Của Tôi (về văn nghệ), Hồ Biểu Chánh cho biết lý do ngừng viết trong tám năm (1913-1921) như sau: “Kế, Thế Giới Chiến Tranh Thứ Nhứt bùng nổ, công việc đa đoan, không viết tiểu thuyết được nữa... chỉ viết mấy hài kịch nho nhỏ cho mấy thầy hát đặng kiếm tiền giúp cho chiến sĩ Việt Nam ngoài mặt trận Âu Châu. Năm 1917 làm Đại Việt Tập Chí ở Long Xuyên. Năm 1918, dời về Gia Định, phụ bút cho mấy tờ báo Quốc Dân Diễn Đàn, Nông Cổ Mín Đàm, Công Luận Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Pháp Thời Báo.” [Theo Thụy Khuê.]
Trong toàn bộ sáu mươi bốn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, có mười một truyện phóng tác theo tiểu thuyết Pháp, một truyện theo tiểu thuyết Nga. Trong hồi ký Đời Của Tôi (về văn nghệ), Hồ Biểu Chánh kể: “Đọc tiểu thuyết hay tuồng hát Pháp văn mà tôi cảm thì tôi lấy chỗ cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều hoặc lấy đó mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Tuy tôi nói phỏng theo kỳ thiệt chỉ lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi còn lật ngược tới đại ý, làm cho cốt truyện trái hẳn tâm lý, khác xa với truyện Pháp.” [Theo Thụy Khuê.]
1917: Tại Long Xuyên, cộng tác với Ðại Việt Tập Chí (của Hội Khuyến Học Long Xuyên). Viết: Vì Nghĩa Quên Nhà (hài kịch, mất bản thảo).*
1918: Tòng sự tại Tòa Bố tỉnh Gia Ðịnh, phụ bút cho các báo: Công Luận Báo, Đông Pháp Thời Báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Nông Cổ Mín Đàm, Quốc Dân Diễn Đàn.
1920: Làm việc tại Phủ Thống Ðốc Nam Kỳ. Ngày 28-12, được thưởng khuê bài danh dự bằng bạc.
1921: Thi đậu ngạch tri huyện.([16]) Ngày 06-4, được triều đình Huế thưởng huy chương Kim Tiền (medaille Kim Tiền).
1922: Viết báo bị kiểm duyệt gắt gao; quay lại viết tiểu thuyết.
Hồ Biểu Chánh kể: “Năm 1922, vì kiểm duyệt gắt gao, nghĩ viết báo vô ích, mới bỏ mà chấn chỉnh lại hai quyển tiểu thuyết viết hồi 1912 tại Cà Mau [Ai làm Được] và 1913 tại Long Xuyên [Chúa Tàu Kim Qui], cho xuất bản và viết thêm tám quyển mới nữa.” [Theo Thụy Khuê.]
Tại Sài Gòn, viết ba hài kịch: Lửa Ngưng [ngún?] Thình Lình (dịch từ tiếng Pháp); Tình Anh Em; Toại Chí Bình Sanh.*
1923: Tại Sài Gòn, viết:
- Cay Đắng Mùi Đời (tiểu thuyết).* Phóng tác theo Sans Famille (Không Gia Đình), của Hector Malot (Pháp, 1830-1907). Đăng Đông Pháp Thời Báo từ 04-7-1923 đến 21-12-1923. In tại Xưa Nay (1923).+
- Một Chữ Tình (tiểu thuyết, tháng 12).*
- Tỉnh Mộng (tiểu thuyết).* Đăng Phụ Nữ Tân Văn (1931). In tại Đức Lưu Phương (1938).+
1924: Ngày 26-8, được tặng huân chương Monisaraphon (ordre royal du Monisaraphon) của Hoàng Gia Cam Bốt (Cambodge).([17])
Tại Sài Gòn, viết: Nam Cực Tinh Huy (tiểu thuyết).* In tại Đức Lưu Phương (1924).+
1925: Tại Sài Gòn, viết:
- Nhơn Tình Ấm Lạnh (tiểu thuyết).* Đăng Đông Pháp Thời Báo từ 03-5-1926 đến 24-11-1926. In tại Xưa Nay (1928).+
- Tiền Bạc, Bạc Tiền (tiểu thuyết, tháng 12).* In tại imprimerie de l’Union (1926).+
1926: Tại Sài Gòn, viết:
- Ngọn Cỏ Gió Đùa (tiểu thuyết, tháng 10; viết xong tại Càng Long, tháng 8-1928).* Phóng tác theo Les Misérables (Những Người Khốn Khổ) của Victor Hugo (Pháp, 1802-1885). Đăng Đông Pháp Thời Báo từ 26-11-1926 đến 28-02-1927. In tại Nguyễn Khắc (1930).+
- Thanh Lệ Kỳ Duyên (tuồng hát bội; nhuận sắc 1941)*
- Thầy Thông Ngôn (tiểu thuyết, tháng 6).* Phóng tác theo Les Amours d’Estève, của André Theuriet (Pháp, 1833-1907). In tại imprimerie de l’Union (1927).+
1927: Thăng lên ngạch tri phủ,([18]) làm chủ quận (quận trưởng) quận Càng Long, tỉnh Trà Vinh.
Ngày 25-3, được thưởng huân chương Đại Nam Long Tinh (ordre royal du Dragon de l’Annam).([19])
1928: Tại quận Càng Long (tỉnh Trà Vinh), viết:
- Chút Phận Linh Đinh (tiểu thuyết, tháng 5).* Phóng tác theo En Famille (Trong Gia Đình), của Hector Malot. In tại Nguyễn Khắc (1928).+
- Kẻ Làm Người Chịu (tiểu thuyết, tháng 12).* Phóng tác theo Les Deux Gosses, của Pierre Decourcelle (Pháp, 1856-1926). Đăng Phụ Nữ Tân Văn (1931). In tại Tín Đức Thư Xã (1929).+
1929: Tại quận Càng Long, viết:
- Cha Con Nghĩa Nặng (tiểu thuyết, tháng 8).* Phóng tác theo Le Calvaire, của Pierre Decourcelle. Đăng Phụ Nữ Tân Văn từ 30-10-1929 đến 13-02-1930. In tại Đức Lưu Phương (1938).+
- Khóc Thầm (tiểu thuyết, tháng 9).* Đăng Phụ Nữ Tân Văn từ 03-4-1930 đến 14-8-1930. In tại imprimerie de l’Union (1935).+
- Vì Nghĩa Vì Tình (tiểu thuyết, tháng 3).* Phóng tác theo Fanfan et Claudinet, của Pierre Decourcelle. Đăng Phụ Nữ Tân Văn từ số 1 đến số 22 (1929). In tại Tín Đức Thư Xã (1929).+
1930: Tại quận Càng Long, viết:
- Con Nhà Nghèo (tiểu thuyết, tháng 10).* In tại Đức Lưu Phương (1930).+
- Nặng Gánh Cang Thường (tiểu thuyết, tháng 5).* In tại Tấn Phát (1953).+
1931: Tại quận Càng Long, viết: Con Nhà Giàu (tiểu thuyết, tháng 7).* Đăng Phụ Nữ Tân Văn từ số 85 (1931) đến số 144 (1932).+
Hồ Biểu Chánh kể: “Từ năm 1927 tới 1932 làm chủ quận Càng Long, viết thêm tám quyển mới nữa, cộng trước sau dưới mười tám quyển.” [Theo Thụy Khuê.]
1932: Làm chủ quận tại quận Ô Môn, tỉnh Cần Thơ.
1934: Làm chủ quận tại quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ.
1935: Về Sài Gòn làm phó chủ sự Phòng 3, kiểm soát ngân sách tỉnh và thành phố. Viết: Lòng Dạ Đàn Bà (đoản thiên, tháng 4).
Tại Vĩnh Hội (Sài Gòn), viết:
- Chuyện Trào Phúng (truyện ngắn, hai tập).*
- Cười Gượng (tiểu thuyết, tháng 9).* In tại Đức Lưu Phương (1937).+
- Dây Oan (tiểu thuyết, tháng 11).* In tại Sông Kiên (1950).+
- Một Đời Tài Sắc (tiểu thuyết, tháng 8).* In tại Lửa Hồng (1957).+
- Nợ Đời (tiểu thuyết, tháng 4).* In tại Đức Lưu Phương (1936).+
- Ở Theo Thời (tiểu thuyết, viết tháng 5).* Phóng tác theo Topaze, của Marcel Pagnol (Pháp, 1895-1974). Đăng Tiểu Thuyết Nam Kỳ từ số 2 (1935). In tại Đức Lưu Phương (1938).+
- Ông Cử (tiểu thuyết, tháng 6).* Phóng tác theo L’Artiste (tác giả?). In tại Đức Lưu Phương (1939).+
- Thiệt Giả, Giả Thiệt (tiểu thuyết, tháng 12).* In tại Đức Lưu Phương (1937).+
1936: Thăng ngạch đốc phủ sứ; làm đơn xin hưu trí. Tại Vĩnh Hội, viết: Đóa Hoa Tàn (tiểu thuyết, tháng 7).* Phóng tác theo Le Rosaire (tác giả?). In tại Đức Lưu Phương (1937).+
1937: Tháng 01, nhận nghị định cho nghỉ hưu; đến năm 1941 mới được về hưu.
Ngày 02-9, được thưởng huân chương Ordre Royal du Cambodge.([20])
Tại Vĩnh Hội (Sài Gòn), viết:
- Lạc Đường (tiểu thuyết, tháng 9).* In tại Đức Lưu Phương (1937).+
- Nghĩa Vợ Chồng (hài kịch, mất bản thảo).*
- Tân Phong Nữ Sĩ (tiểu thuyết, tháng 12).* In tại Đức Lưu Phương (1938).+
- Từ Hôn (tiểu thuyết, tháng 10).* In tại Đức Lưu Phương (1938).+
1938: Tại Vĩnh Hội, viết:
- Bỏ Chồng (tiểu thuyết, tháng 10).* In tại Đức Lưu Phương (1939).+
- Bỏ Vợ (tiểu thuyết, tháng 11).* In tại Lửa Hồng (1957).+
- Lời Thề Trước Miễu (tiểu thuyết, tháng 01).* In tại Lửa Hồng (1961).+
- Người Thất Chí (tiểu thuyết, tháng 12). Đăng báo Sài Gòn (1939).* Phóng tác theo Crime et Châtiment (Tội Ác Và Hình Phạt), của Dostoievski (Nga, 1821-1881). In tại Sông Kiên (1961).+
- Tại Tôi (tiểu thuyết, tháng 3).* In tại Đức Lưu Phương (1939).+
- Ý Và Tình (tiểu thuyết, tháng 9; viết xong tháng 11-1942). Đăng Nam Kỳ Tuần Báo.* In tại Lửa Hồng (1957).+
1939: Tại Vĩnh Hội, viết:
- Hai Khối Tình (tiểu thuyết, tháng 9). Đăng báo Sài Gòn (1939).* In tại Tấn Phát (1956).+
- Tìm Đường (tiểu thuyết, tháng 7). Đăng Nam Kỳ Tuần Báo.*
- Đoạn Tình (tiểu thuyết, tháng 12). Đăng Đại Việt Tập Chí.* In tại Phương Nam (Sài Gòn, 1953).+
1941:
Ngày 04-8: Được cử làm nghị viên Hội Ðồng Liên Bang Ðông Dương.
Ngày 26-8 được cử làm nghị viên kiêm phó đốc lý ([21]) thành phố Sài Gòn. Cuối năm, làm nghị viên trong Ban Quản Trị thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ngày 09-8, được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh hạng năm (Chevalier de la Légion d’Honneur).([22])
Tại Vĩnh Hội, viết:
- Ái Tình Miếu (tiểu thuyết, tháng 02). Đăng Đại Việt Tập Chí.*
- Cư Kỉnh (tiểu thuyết, tháng 7).* In tại Thạch Thị Mậu (1942).+
- Ký Ức Cuộc Đi Bắc Kỳ (hồi ký).*
1942: Tại Sài Gòn, viết: Pétain Cách Ngôn Và Á Đông Triết Lý Hiệp Giải (khảo cứu).*
1942-1943: Làm chủ nhiệm bán nguyệt san Ðại Việt Tập Chí (của Hội Khuyến Học Long Xuyên),([23]) và làm chủ nhiệm Nam Kỳ Tuần Báo xuất bản tại Sài Gòn.([24])
1943: Tại Vĩnh Hội, viết:
- Hai Khối Tình (tuồng cải lương).*
- Mẹ Ghẻ Con Ghẻ (tiểu thuyết, tháng 10; viết xong tháng 11-1954).* In tại Sông Kiên (1960).+
- Nguyệt Nga Cống Hồ (tuồng cải lương).*
1944: Tại Vĩnh Hội (Sài Gòn), viết:
- Cái Chết Của Người Xưa (diễn văn).*
- Chấn Hưng Văn Học (khảo cứu). Đăng Đại Việt Tập Chí.*
- Chị Hai Tôi (đoản thiên, tháng 6).*
- Gia Định Tổng Trấn (khảo cứu).*
- Gia Long Khai Quốc Văn Thần (khảo cứu). Đăng Đại Việt Tập Chí.*
- Gia Long Khai Quốc Võ Tướng (khảo cứu). Đăng Đại Việt Tập Chí.*
- Hai Thà Cưới Vợ (đoản thiên, tháng 9).*
- Hoài Quốc Công Võ Tánh (khảo cứu, đăng Đại Việt Tập Chí số 34, 35, 36).*
- Mấy Ngày Ở Bến Súc (hồi ký).*
- Một Đóa Hoa Rừng (đoản thiên, tháng 9).*
- Ngập Ngừng (đoản thiên, tháng 12).*
- Thầy Chung Trúng Số (đoản thiên, tháng 8).*
- Trung Hoa Tiểu Thuyết Lược Khảo (khảo cứu).*
- Vườn Xưa Ghé Mắt (hai tập). Đăng Đại Việt Tập Chí từ số 39 tới số 44).*
1945: Không còn làm nghị viên trong Ban Quản Trị thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
Tại Bến Súc (Thủ Dầu Một), viết:
- Chuyện Lạ Trên Rừng (truyện ngắn).*
- Đông Châu Liệt Quốc Chí Bình Nghị (khảo cứu).*
- Tu Dưỡng Chỉ Nam (khảo cứu).*
Tại Bình Xuân (thuộc tỉnh Gò Công?), viết:
- Công Chúa Kén Chồng (tuồng hát bội).*
- Đại Nghĩa Diệt Thân (hài kịch).*
- Một Lằn Chánh Khí: Văn Thiên Tường (khảo cứu).*
- Pháp Quốc Tiểu Thuyết Lược Khảo (khảo cứu).*
- Trương Công Định Quy Thần (tuồng hát bội).*
- Xả Sanh Thủ Nghĩa (tuồng hát bội).*
Tại Gò Công, viết:
- Nhơn Quần Tấn Hóa Sử (khảo cứu).*
- Tiểu Sử Trương Công Định (khảo cứu, mất bản thảo).*
Ngoài ra còn viết:
- Ít Bài Chúc Tặng (diễn văn).*
- Mạnh Tử Với Chủ Nghĩa Dân Chủ (diễn văn).*
1946: Làm chánh văn phòng cho “chánh phủ” Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ ([25]) của Thủ Tướng Nguyễn Văn Thinh (1888-1946). Sau khi bác sĩ Nguyễn Văn Thinh tự tử, Hồ Văn Trung bỏ hẳn nghề công chức, trở về Gò Công. Viết: Nho Giáo Và Chánh Trị (diễn văn).*
1947: Tại Gò Công, viết: Vì Nước Vì Dân (tuồng cải lương).*
1948: Tại Gò Công, viết:
- Âu Mỹ Cách Mạng Sử (khảo cứu).*
- Chánh Trị Giáo Dục (khảo cứu).*
- Địa Vị Của Đàn Bà Việt Nam (diễn văn).*
- Độc Lập Trong Liên Hiệp Pháp (diễn văn).*
- Giáo Lý Của Đạo Phật (diễn văn).*
- Một Thiên Ký Ức: Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị (hồi ký).*
- Nho Giáo (diễn văn).*
- Nho Học Danh Thơ (khảo cứu).*
- Phật Tử Tu Tri (khảo cứu).*
- Thành Ngữ Tạp Lục (khảo cứu).*
- Truyền Kỳ Lục (truyện ngắn).*
- Tùy Bút Thời Đàm (tùy bút).*
- Việt Ngữ Bổn Nguyên (khảo cứu).*
1949: Tại Gò Công, viết:
- Địa Dư Đại Cương (khảo cứu).*
- Hoàn Cầu Thông Chí (khảo cứu, năm quyển).*
- Nhàn Trung Tạp Ký (hồi ký, ba tập).*
- Tâm Hồn Tôi (hồi ký).*
- Thiền Môn Chư Phật (khảo cứu).*
1950: Viết: Phật Giáo Cảm Hóa Trung Hoa (khảo cứu).*
1951: Viết:
- Nho Giáo Tinh Thần (khảo cứu).*
- Phật Giáo Vào Việt Nam (khảo cứu).*
- Trung Hoa Cao Sĩ, Ẩn Sĩ, Xử Sĩ (khảo cứu).*
1953: Tại Gò Công, viết:
- Bức Thơ Hối Hận (tiểu thuyết, tháng 3).* In tại Lửa Hồng (Sài Gòn, 1957).+
- Trọn Nghĩa Vẹn Tình (tiểu thuyết, tháng 4; viết xong tháng 10).*
1954: Tại Gò Công, viết: Nặng Bầu Ân Oán (tiểu thuyết, tháng 02; viết xong tháng 9).*
Tại Sài Gòn, viết:
- Đỗ Nương Nương Báo Oán (tiểu thuyết, 23-10; viết xong 25-11).* In tại Sông Kiên (1961).+
- Lá Rụng Hoa Rơi (tiểu thuyết, tháng 11; viết xong tháng 3-1955).*
1955: Trường Mỹ Nghệ Thực Hành Biên Hòa ([26]) tặng Hồ Biểu Chánh tượng bán thân bằng đồng, hiện đang làm tượng thờ tại Nhà Lưu Niệm (An Tất Viên, số 30/23 đường số 8, tổ 40, phường 11, quận Gò Vấp, TpHCM).
Tại Sài Gòn, viết:
- Đại Nghĩa Diệt Thân (tiểu thuyết, 13-7; viết xong 18-8).*
- Hai Chồng (đoản thiên, 14-25 tháng 02).*
- Hai Vợ (đoản thiên, 26-6; viết xong 09-7).*
- Những Điều Nghe Thấy (tiểu thuyết, 18-8; viết xong 31-5-1956).*
- Tơ Hồng Vương Vấn (tiểu thuyết, tháng 4; viết xong tháng 7).* In tại Mai Hương (1959).+
- Ông Cả Bình Lạc (tiểu thuyết, 15-12; viết xong 22-3-1956).*
- Trả Nợ Cho Cha (tiểu thuyết, 02-9; viết xong 08-11).*
1956: Tại Sài Gòn, viết:
- Một Duyên Hai Nợ (tiểu thuyết, 16-4; viết xong 27-9).*
Tại Phú Nhuận, viết:
- Trong Đám Cỏ Hoang (tiểu thuyết, 23-6; viết xong 10-01-1957).*
- Vợ Già Chồng Trẻ (tiểu thuyết, 08-10; viết xong 09-11).* In tại Thùy Dương Trang (1959).+
1957: Tại Phú Nhuận, viết:
- Chị Đào, Chị Lý (tiểu thuyết, 08-6; viết xong 25-8).*
- Đón Gió Mát [Mới?], Nhắc Chuyện Xưa (tiểu thuyết, 15-4; viết xong 02-6).*
- Đời Của Tôi (hồi ký, gồm ba phần: về quan trường; về văn nghệ; về phong trào cách mạng).*
- Hạnh Phúc Lối Nào (tiểu thuyết, 21-01; viết xong 14-02).*
- Lẫy Lừng Hào Khí (tiểu thuyết, 01-12; viết xong 10-4-1958).*
- Nợ Tình (tiểu thuyết, 22-3; viết xong 02-4).*
- Nợ Trái Oan (tiểu thuyết, 24-6; viết xong 13-7).*
- Sống Thác Với Tình (tiểu thuyết, 21-02; viết xong 16-3).* In tại Lạc Hồng (1968).+
- Tắt Lửa Lòng (tiểu thuyết, 09-10; viết xong 15-11).*
1958: Ngày 04-11, từ trần tại biệt thự Biểu Chánh,([27]) quận Phú Nhuận, tỉnh Gia Ðịnh. Viết dang dở: Lần Qua Đời Mới (16-4); Hy Sinh (16-6).*
Hồ Văn Kỳ Trân (con trưởng) kể:
“Bệnh đã càng ngày càng thêm mà ba tôi không chịu nghỉ viết. Thầy thuốc cấm. Ba tôi vẫn viết. Con cháu năn nỉ lắm thì ba tôi chỉ nghỉ vài ngày rồi viết nữa và bảo rằng: ‘Ba còn viết được thì cứ để cho ba viết. Ba không viết được thì lòng thấy bứt rứt, người thấy khó chịu hơn. Có viết được lòng mới thấy yên ổn, người mới thấy thư thả dễ chịu. Viết là một phương thuốc, là một cách trị bịnh cho ba đó.’ (...)
Cách đó ít bữa thì ba tôi từ trần. Trên bàn viết còn để lại bản thảo một tác phẩm viết dở.” [Theo Thụy Khuê.]
1959: Ngày 30-8, bà Hồ Biểu Chánh (Đào Thị Nhự) tạ thế.
1967: Ngày 15-4, tại Sài Gòn, bán nguyệt san Văn số 80 làm chủ đề Tưởng Niệm Hồ Biểu Chánh, gồm các bài viết của Bình Nguyên Lộc, Dương Nghiễm Mậu, Đông Hồ, Hồ Hữu Tường, Huỳnh Phan Anh, Sơn Nam, Thanh Lãng, Thiếu Sơn.
1988: Ngày 17 và 18-11, Hội thảo khoa học về nhà văn Hồ Biểu Chánh được tổ chức lần đầu tiên tại Tiền Giang, có ba mươi bài tham luận.
1989-2011: Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh được dựng thành phim truyện:  Đạo diễn Hồ Ngọc Xum: Cay Đắng Mùi Đời; Con Nhà Nghèo; Lòng Dạ Đàn Bà; Ngọn Cỏ Gió Đùa; Nợ Đời. Đạo diễn Võ Vit Hùng: Cư Kỉnh (dựng thành phim Tình Án); Khóc Thầm; Tại Tôi; Tân Phong Nữ Sĩ. ƒ Đạo diễn Vũ Ngọc Khôi: Chúa Tàu Kim Qui (dựng thành phim Ân Oán Nợ Đời).
2002: Tiến Sĩ Trang Quang Sen và Tiến Sĩ Phan Tấn Tài (đều ở bên Đức) chuẩn bị lập www.hobieuchanh.com, và bắt đầu chuyển dần các bài viết lên mạng vào mùa hè 2003. Vài tác phẩm cuối cùng của Hồ Biểu Chánh tìm được và đưa lên mạng vào năm 2008 do hai cháu nội nhà văn là Hồ Văn Kỳ Thoại (trưởng nam của Hồ Văn Kỳ Trân) và Hồ Văn Di Hấn (trưởng nam của Hồ Văn Di Hinh) gởi tặng.
2003: Hậu duệ lập Nhà Lưu Niệm Hồ Biểu Chánh (An Tất Viên, số 30/23 đường số 8, tổ 40, phường 11, quận Gò Vấp, TpHCM.)
2006: Ngày 27-9, tại Mỹ Tho, Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Tiền Giang, khóa VII, kỳ họp thứ 9, thông qua nghị quyết về việc đặt tên và đổi tên đường trên địa bàn thị xã Gò Công. Theo nghị quyết số 105/2006/NQ-HĐND do Chủ Tịch Đỗ Tấn Minh ký, con đường vành đai phía bắc được đặt tên là đường Hồ Biểu Chánh.([28])
2012: Ngày 11-7, tại Quảng Bình, Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Quảng Bình, khóa XVI, kỳ họp thứ 5, thông qua nghị quyết đặt tên đường trên địa bàn thành phố Đồng Hới. Theo nghị quyết số 40/2012/NQ-HĐND do Chủ Tịch Lương Ngọc Bính ký, đường Hồ Biểu Chánh tại xã Lộc Ninh dài 670 mét, nền đường 7,5 mét...([29])
2013: Thị trấn Khánh Hải (huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận) đặt tên đường Hồ Biểu Chánh (dài 136m, lộ giới 10m; điểm đầu đường Nguyễn Trung Trực, điểm cuối giáp đường Lê Thị Hồng Gấm).([30])
Ghi chú: Hiện nay còn có đường Hồ Biểu Chánh ở quận Phú Nhuận, TpHCM, chạy từ đường Nguyễn Văn Trỗi tới đường Huỳnh Văn Bánh. Trước tháng 7-2010 đã có đường Hồ Biểu Chánh ở quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
Phú Nhuận, 26-01-2014
Huệ Khải
Nguồn: Huệ Khải, Hồ Biểu Chánh Xưa Và Nay. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014, tr. 9-32



([1]) Thư Hồ Biểu Chánh viết cho con trai. Đoạn thư này được viết lại, lộng kính, treo tại Nhà Lưu Niệm ở An Tất Viên, không ghi ngày tháng năm. Đoạn thư này có ở trang thủ bút Hồ Biểu Chánh, in trong bán nguyệt san Văn, năm thứ thư, số 80 (Sài Gòn: 15-4-1967).
([2]) Từ năm 1956 các làng gọi là xã. Làng Bình Thành nhập với làng Bình Công, gọi là xã Thành Công. Quê của Hồ Biểu Chánh nay ở ấp Thạnh Nhứt, xã Bình Xuân, thị xã Gò Công.
http://www.hobieuchanh.com/pages/baiviet/PhanThanhSac/GoCongTrongTieuThuyetHBC.htm#_ftn1.
([3]) Có lẽ vì ngày xưa trẻ con thường được làm giấy khai sanh trễ.
([4]) Tự (tên chữ): Chỉ đặt cho phái nam, thường gồm hai từ đơn ghép lại. Theo Lễ Ký, con trai hai mươi tuổi được làm lễ đội mũ (đánh dấu thời kỳ bắt đầu trưởng thành) và có thêm tên chữ (tự) để bày tỏ ý hướng đạo đức của chàng trai. Biểu (động từ) là bày tỏ, biểu dương; (danh từ) là gương mẫu, mẫu mực. Chánh (danh từ) là điều đúng đắn. Biểu Chánh có nghĩa bày tỏ, biểu dương cái đúng cho mọi người thấy rõ; cũng có nghĩa là việc đúng đắn làm gương cho người khác noi theo.
([5]) Hiệu : Tên đặt thêm ngoài tên thật, tên chữ (tự).
([6]) Năm 1904, thực dân Pháp ra nghị định thành lập Hội Đồng Hương Chức (gọi là Bàn Hội Tề), gồm mười hai chức vụ: (i) Hương Cả: Chủ tịch Hội Đồng, kiêm nhiệm vụ lưu trữ văn thư. / (ii) Hương Chủ: Phó chủ tịch Hội Đồng kiêm nhiệm vụ thanh tra. / (iii) Hương Sư: Cố vấn luật lệ. / (iv) Hương Trưởng: Thủ quỹ, cố vấn giáo dục. / (v) Hương Chánh: Hòa giải và phân xử các vụ tranh tụng trong làng. / (vi) Hương Giáo: Thư ký Hội Đồng, cố vấn cho các hương chức trẻ tuổi. / (vii) Hương Quản: Trưởng ban cảnh sát trong làng, kiểm tra sông rạch, đường sá trong làng. / (viii) Hương Bộ: Giữ sổ thuế và các loại sổ thu chi, kiêm nhiệm vụ bảo vệ công sở và các loại tài sản công cộng. / (ix-xi) Hương Thân, Thôn Trưởng,Hương Hào: Giữ nhiệm vụ trung gian giữa địa phương, chánh quyền và tòa án cấp trên. Thôn Trưởng giữ con dấu và được quyền xử lý các vụ việc thông thường. / (xii) Chánh Lục Bộ: Coi hộ tịch và thông báo khi có dịch bệnh.
Nghị định ngày 30-10-1927 của Toàn Quyền Đông Dương quy định Hội Đồng Hương Chức Hội Tề (gọi là Bàn Hội Tề) gồm có mười hai chức vụ: (i) Hương Cả: Quyền hạn như trước, có thêm nhiệm vụ quản lý cơ sở vật chất công cộng, chuyển nhiệm vụ lưu trữ văn thư sang Hương Bộ. / (ii) Hương Chủ: Có thêm nhiệm vụ thủ quỹ, chuyển nhiệm vụ thanh tra sang Hương Sư. / (iii) Hương Sư: Làm phó chủ tịch Hội Đồng, kiêm nhiệm vụ thanh tra. / (iv) Hương Trưởng: Trông nom công việc giáo dục và văn hóa trong làng. / (v) Hương Chánh: Có thêm nhiệm vụ cố vấn các chức việc. / (vi) Hương Giáo: Nhiệm vụ y như trước. / (vii) Hương Quản: Có thêm nhiệm vụ phụ tá quan biện lý ở địa phương. / (viii) Hương Bộ: Giữ sổ thuế, sổ sách thu chi, thêm nhiệm vụ giữ công quỹ. / (ix-xi) Hương Thân, Xã Trưởng,Hương Hào: Nhiệm vụ như cũ. Hương Hào có thêm nhiệm vụ trưởng ban cảnh sát trong làng, giám sát việc thi hành luật lệ, bảo trì đường bộ, đường sông và tống đạt công văn tòa án. / (xii) Chánh Lục Bộ: Nhiệm vụ như cũ.
([7]) http://www.gocong.com/forums/forum_posts.asp?TID=391
([8]) Một nghị định ngày 17-3-1879 của Thống Đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers thành lập collège de Mỹ Tho tại tỉnh Mỹ Tho (nghị định bổ sung ngày 14-6-1880). Ngày 02-12-1942, trường đổi tên là collège Le Myre de Vilers. Do nghị định 179-NÐ ngày 22-3-1953 của Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Thành Giung, trường đổi tên là trung học Nguyễn Ðình Chiểu cho tới nay.
([9]) Lược sử trường như sau: Pháp thành lập école Normale colonial (trường sư phạm thuộc địa, ngày 10-7-1871); xây trên phần đất chùa Khải Tường (12-8-1871). Đổi tên thành collège Indigène (trường bản xứ, 1874). Đổi tên thành collège Chasseloup-Laubat (1876), chia ra khu Âu (quartier européen) và khu bản xứ (quartier indigène). Tách khu bản xứ nhập sang collège de Cochinchine (trung học Nam Kỳ, 15-7-1927). Collège Chasseloup-Laubat đổi tên thành lycée Chasseloup-Laubat (1928), còn collège de Cochinchine đổi tên thành lycée Petrus Ký. Lycée Chasseloup-Laubat đổi tên thành lycée Jean Jacques Rousseau (1958), và sau cùng là trung học Lê Quý Đôn (1966 cho tới nay).
([10]) Ký lục: Viên chức cấp thấp, có nhiệm vụ ghi chép sổ sách trong các công sở ở Nam Kỳ thời Pháp thuộc, tức là thơ ký (secrétaire). Ca dao có câu: Chiều chiều lại nhớ chiều chiều / Nhớ thầy ký lục ăn liều bánh ngô. (Bánh ngô: Bánh chế biến từ hột bắp, chiên hoặc hấp.)
([11]) Phủ Thống Đốc Nam Kỳ đặt tại Sài Gòn (về sau gọi là Dinh Gia Long, nay là Bảo Tàng TpHCM, số 65 Lý Tự Trọng, quận 1). Xưa kia, người miền Nam quen gọi là Soái Phủ Nam Kỳ (Gouvernement des Amiraux), vì cho tới năm 1878 nó còn là trụ sở của một quan võ Pháp, hàm Lieutenant-Gouverneur, tức Phó Soái. Kể từ năm 1879 mới thay quan võ bằng quan văn, và Thống Đốc Nam Kỳ (dân sự) đầu tiên là Le Myre de Vilers.
([12]) Cũng gọi Dinh Thượng Thơ. Nơi này về sau là Dinh Thủ Hiến Nam Việt (1946), Tòa Đại Biểu Nam Phần, Bộ Kinh Tế (Việt Nam Cộng Hòa) nằm trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) gần góc đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng), quận Nhứt, Sài Gòn.
([13]) http://thuykhue.free.fr/mucluc/hobieuchanh.html.
([14]) Từ đây trở đi, xin lưu ý:  Chi tiết về ngày tháng viết từng tác phẩm căn cứ theo danh sách in trên bán nguyệt san Văn, số 80 (Sài Gòn: 15-4-1967, tr. 19-24). Tạp chí cho biết “Danh sách nầy do chính cụ Hồ Biểu Chánh ghi chép”. Đánh dấu * để chỉ nguồn tham khảo này. Các chi tiết về ngày đăng báo, năm xuất bản (in lần đầu tiên) thì căn cứ theo Lâm Văn Bé, “Hồ Biểu Chánh: Nhà Văn Lớn Của Miền Nam”, tại http://namkyluctinh.org/a-vhbkhao/lvbe-hobieuchanh.pdf. Đánh dấu + để chỉ nguồn tham khảo này.
([15]) Tòa Bố: Cơ quan hành chánh (sau này gọi là tòa tỉnh trưởng), đứng đầu là chủ tỉnh (sau này gọi là tỉnh trưởng).
([16]) Ngạch tri huyện có hai hạng: tri huyện hạng nhì (huyện de 2e classe); tri huyện hạng nhứt (huyện de 1er classe). Tham khảo: Ngày 14-7-1920 ông Ngô Văn Chiêu (1878-1932) thăng tri huyện hạng nhứt, tiền lương 1.222 đồng.
([17]) Huân chương này do quốc vương Sisowath I (trị vì 1904-1927) lập ngày 01-02-1905.
([18]) Cũng như tri huyện, ngạch tri phủ có hai hạng: tri phủ hạng nhì (phủ de 2e classe); tri phủ hạng nhứt (phủ de 1er classe). Tham khảo: Ngày 01-01-1924 ông Ngô Văn Chiêu thăng lên ngạch tri phủ hạng nhì (phủ de 2e classe), tiền lương là 1.672 đồng. Ngày 01-7-1926 ông Ngô Văn Chiêu thăng lên ngạch tri phủ hạng nhứt, tiền lương là 1.933 đồng. (Tri phủ thấp hơn ngạch đốc phủ sứ, thường gọi tắt là đốc phủ.)
([19]) Huy chương Ðại Nam Long Tinh (gồm năm hạng), do vua Đồng Khánh (trị vì 1885-1889) lập ra ngày 14-3-1886. (http://www.indochinamedals.com)
([20]) Do quốc vương Norodom I (trị vì 1860-1904) lập ngày 08-02-1864.
([21]) Đốc lý: Thị trưởng, đô trưởng (maire).
([22]) Bắc Đẩu Bội Tinh: Huân chương rất cao quý của Pháp, do Napoléon Bonaparte (1769-1821) lập ra ngày 19-5-1802, gồm năm hạng; hạng năm là Chevalier (hiệp sĩ), hạng nhất là Grand Croix (đại thập tự).
([23]) Ra mắt ngày 01-10-1942 và đình bản với số kép 53-54 vào tháng 12-1944 & tháng 01-1945. Hồ Văn Kỳ Trân làm quản lý.
([24]) Phát hành Thứ Năm hàng tuần, ra mắt năm 1942. Nam Kỳ Tuần Báo ra tổng cộng được 85 số và đình bản ngày 08-6-1944.
([25]) Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ (République autonome de Cochinchine), cũng gọi là: Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc, Nam Kỳ Quốc, Cộng Hòa Nam Kỳ, Nam Kỳ Tự Trị. Đây là một “chánh quyền” giả hiệu do thực dân Pháp bày ra (do âm mưu của D’Argenlieu, là Cao Ủy Pháp tại Đông Dương). “Chánh phủ” này không có tài chánh, không có quân đội, không có cả trụ sở; bác sĩ Nguyễn Văn Thinh phải lấy phòng khám bệnh (phòng mạch) của ông để “chánh phủ” làm việc. Khi biết bị thực dân lừa gạt, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh đã thắt cổ chết thảm tại phòng mạch của mình vào ngày 10-11-1946.
([26]) Nguyên là trường Dạy Nghề Biên Hòa (cũng gọi trường Bá Nghệ Biên Hòa: École professionnelle de Biên Hòa, 1903), lần lượt đổi tên thành trường Mỹ Nghệ Bản Xứ Biên Hòa (École d’Art indigène de Biên Hòa, tháng 9-1913), trường Mỹ Nghệ Thực Hành Biên Hòa (École des Arts appliqués de Biên Hòa, 1944), trường Kỹ Thuật Biên Hòa (1964), trường Phổ Thông Công Nghiệp Đồng Nai (1977), trường Trung Học Mỹ Thuật Trang Trí Đồng Nai (1978), và trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Trang Trí Đồng Nai (từ 1998 đến nay). Theo: dongnaiart.edu.vn.
([27]) Biệt thự Biểu Chánh nằm trong hẻm 49, nhà số 11. Cùng hẻm, nhà số 1 là của thông gia (Trần Văn Mẹo, cha vợ của Hồ Văn Di Hinh). Hẻm 49 (nay là đường Hồ Biểu Chánh) ăn thông ra đường Ngô Đình Khôi (nay là Nguyễn Văn Trỗi).
([28]) http://thuvienphapluat.vn/archive/Nghi-quyet-105-2006-NQ-HDND-doi-ten-duong-xa-Go-Cong-Tien-Giang-vb199196.aspx
([29]) http://thuvienphapluat.vn/archive/Nghi-quyet-40-2012-NQ-HDND-dat-ten-duong- thanh-pho-Dong-Hoi-lan-thu-5-vb147674.aspx
([30]) http://baoninhthuan.com.vn/diendan/48068p1c30/ninh-hai-dat-ten-duong-cho-thi-tran-khanh-hai.htm