Thứ Tư, 26 tháng 7, 2023

CƠN BÃO TRONG TÁCH TRÀ

 CHỮ VÀ NGHĨA:

CƠN BÃO TRONG TÁCH TRÀ

HUỆ KHẢI

1. Năm nay bảy mươi bốn tuổi tây, ông bạn già của tôi là Nguyễn Quang Thọ vừa cho chào đời đứa con tinh thần vào cuối tháng 6 vừa qua: NGƯỜI VIỆT NÓI TIẾNG VIỆT (Nxb Tổng Hợp TpHCM, 2023, dày 384 trang 16x24cm).

Trước buổi sáng ra mắt sách (01-7) tại Đường Sách ở Sài Gòn mấy ngày, vào sáng Thứ Bảy (ngẫu nhiên trùng kỷ niệm sinh nhật tôi) lão bằng hữu ghé nhà ký tặng sách. Nâng niu món quà dày dặn của bạn trên tay, tôi nói:

Bác cứ làm sách loại này thì đất nước đời đời sẽ tri ân bác. Phải cứu lấy tiếng Việt, bác ạ.

Tôi nói tiếp:

Tiếng Việt bây giờ lạ lắm! Viết 60km/giờ mà bá tánh cứ đọc là sáu mươi ki-lô-mét TRÊN giờ’. Sao không nói sáu mươi ki-lô-mét MỖI giờ? Viết ‘làm việc 8 tiếng/ngày’ thì chẳng lẽ lại nói ‘làm việc tám tiếng TRÊN ngày’ ư? Ta vẫn nói ‘làm việc tám tiếng một ngày (mỗi ngày)’ mà.

Hoặc, thấy sách này của bác, bá tánh hít hà: Ồ, sách thật là ĐẲNG CẤP!’ Đẳng cấp là mức độ; ta có đẳng cấp cao, đẳng cấp trung bình, và đẳng cấp thấp. Nói nửa vời như thế là khen hay chê sách vậy?

Hoặc họ bảo: Sách ông này phải đủ TRÌNH mới đọc nổi.’ Chao ôi! Tại sao bá tánh lóng rày cứ đua nhau nói tắt TRÌNH ĐỘ là TRÌNH? Bà con đang xúm nhau tiêu diệt tiếng Việt à?

Thế rồi ngắm nghía cái bìa sách rất mỹ thuật do con gái rượu của bạn mình thiết kế, tôi khen nó lạ và bắt mắt.

 


Như được gãi đúng chỗ ngứa, lão hữu Quang Thọ bèn giải mã luôn ý tứ bìa sách của mình, đại để như sau:

Tôi bảo con gái hãy làm bìa như thế này ... thế này ... Lúc đầu tôi định lấy nền là vải gấm, hay lụa là, ngụ ý ngôn ngữ cha ông mình sang trọng và quý báu lắm. Nhưng rồi tôi nghĩ phần lớn thành ngữ, tục ngữ đều từ quần chúng bình dân mà ra; nên tôi bảo cháu chọn nền là mảnh vải bố thô ráp. Còn miếng vá đặt lên đó là hàm ý tôi đang VÁ LẠI lỗ thủng trong các từ điển tiếng Việt.

Anh mượn lại cuốn sách trên tay tôi, lật ngược cho xem bìa lưng (bìa bốn), và nói tiếp:

Xem mảnh bố vá ở bìa lưng nhé. Sợi chỉ khâu đen còn thừa một đoạn vắt ngược lên góc phải. Tức là tôi CHƯA VÁ XONG các lỗ thủng trong các từ điển tiếng Việt đâu. Xong cuốn này tôi còn soạn thêm cuốn nữa ...

Ôi! Lão bạn hiền của tôi nói năng hay như rứa mà lại tự xưng là TƯ CÀ LĂMtrên FB của ổng. Ổng cà lăm thì tôi ngọng mất, hay câm luôn.

Tiễn bạn ra về rồi, tôi mở computer, gõ phím ghi vội câu chuyện trên đây và đăng luôn trên FB của mình, vừa để “khoe” quà sách, vừa để “rao hàng” ủng hộ bạn mình bán được sách.

Sau khi xem lời “rao” tôi đăng FB, anh Thọ gọi điện thoại bảo rằng lẽ ra hôm ấy anh nên nói thêm cho đủ ý là Sợi chỉ khâu đen còn thừa một đoạn vắt ngược lên góc phải có nghĩa là tôi CHƯA VÁ XONG các lỗ thủng trong các từ điển tiếng Việt đâu, và cũng CHƯA VÁ XONG lỗ thủng hiểu biết tiếng Việt của chính tôi. Cho nên, xong cuốn này tôi còn soạn thêm cuốn nữa ...

Tôi cười, tán thưởng lời anh bổ túc rằng viết sách là VÁ LỖ THỦNG HIỂU BIẾT của bản thân. Tôi liền nhắc anh lời tự thuật của thầy Nguyễn Hiến Lê; thầy từng bảo rằng mỗi khi muốn tìm hiểu thấu đáo một vấn đề gì thì thầy viết sách về vấn đề đó. Cũng để phụ họa ý thầy Hiến Lê, tôi chia sẻ với anh quan niệm bấy lâu của tôi về việc viết sách: “Viết sách là một cách tự học. Mỗi cuốn sách viết xong coi như là một bản thu hoạch về vấn đề mình đã tự đề ra và hoàn tất.”

2. Khi nhắc tên thầy Hiến Lê, tôi không khỏi nhớ tới một đức tánh của thầy: Mỗi khi nhận được sách bạn văn ký tặng, thầy đều đọc kỹ và viết bài giới thiệu sách (điểm sách) rất hay để gởi đăng ở một tạp chí tên tuổi, uy tín tại Sài Gòn. Trong lòng tôi dưng không lại có ý muốn viết bài giới thiệu NGƯỜI VIỆT NÓI TIẾNG VIỆT.

Nhưng quả không dễ viết bài giới thiệu sách mới của Nguyễn Quang Thọ. Nhận sách bạn tặng ngót một tháng rồi, mấy phen giở ra xem theo kiểu “đánh du kích” rồi, thế mà vẫn lúng túng.

2.1. Tối hôm qua, giở sách “hú họa” thì gặp mục từ 169. “cơn bão trong tách trà”. Nguyên văn như sau:

“Đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ hay là cơn bão trong tách trà?” là tiêu đề bài viết của tiến sĩ Hoàng Dũng. Với những luận cứ xác đáng, tiến sĩ Hoàng Dũng đã chỉ ra những bất cập trong lời đề xuất của giáo sư Bùi Hiền. Chắc chắn đề xuất này còn gây nhiều tranh cãi, nhưng có lẽ Hoàng Dũng có lý khi ông đặt câu hỏi hoài nghi. Qua bài của Hoàng Dũng, được biết Bùi giáo sư đã “thai nghén” công trình này suốt 30 năm. Bỗng sực nhớ thành ngữ Đức có câu: “Quả núi quằn quại và đẻ ra một con chuột.” (Der Berg kreisste und gebar eine Maus.) Hình như câu này cũng có trong tiếng Anh. (tr. 95)

Tôi nghĩ: Âu là tạm mượn câu kết của mục từ 169 để gián tiếp giới thiệu sách của bạn.

2.2. Vâng, quả thật tiếng Anh có một thành ngữ (idiom) đồng nghĩa với thành ngữ Đức “Quả núi quằn quại và đẻ ra một con chuột.” Câu tiếng Anh là: Make a mountain out of a molehill.Dị bản là: Making a mountain out of a molehill.

Molehill là đất do chuột chũi (mole) đùn lên mặt đất khi đào hang. Nghĩa đen của thành ngữ Anh là: “Biến đất chuột chũi đùn thành ngọn núi.” Người Hoa nói 小題大做 (tiểu đề đại tố), chẳng khác gì người Việt nói chuyện bé xé ra to; có ít xít ra nhiều”.

Thành ngữ “Biến đất chuột chũi đùn thành ngọn núi” nói tới những người thích thổi phồng một sự việc cỏn con, tầm thường; ưa làm ầm ĩ, to tát những việc nhỏ nhặt chẳng đáng bận lòng.

3. Nhân tiện, nói thêm về mục từ “cơn bão trong tách trà”.

Tiếng Anh là “a storm in a teacup”. Ở đây, “teacup” là cái tách dùng uống trà, cái tách không. Có nước trà trong tách thì nói là “a cup of tea”.

Tiếng Mỹ khác hơn một chút: a tempest in a teapot(bão tố, cuồng phong trong ấm tích). Ở đây, “tempest” là bão tố dữ dội (violent storm). “Teapot” là bình tích, ấm để pha trà, chưa có nước trà. Khi ấm tích có nước trà thì nói là “a pot of tea”.

Cả hai cách nói của Anh và Mỹ đều có nghĩa là giận dữ (anger), âu lo (worry), phiền muộn (upset) vì một chuyện nhỏ nhặt, chẳng đáng bận lòng mệt trí. Người Hoa nói là 小題大做 (tiểu đề đại tố); 大驚小怪 (đại kinh tiểu quái: quá kinh hãi việc quái lạ nhỏ nhặt). Trong sách bạn tôi, anh không giải thích ý nghĩa “cơn bão trong tách trà”, cũng không nói rõ xuất xứ của nó là ở bên đảo quốc sương mù. Có lẽ anh nghĩ không cần.

3.1. Khoảng năm 1598 hay 1599, khi viết một hài kịch về hai cặp tình nhân ở thành phố cảng Messina (đông bắc đảo Sicily, nước Ý), William Shakespeare (1564-1616) đặt nhan đề là Much Ado about Nothing(Chuyện Không Có Gì Mà Ầm Ĩ). Ý nghĩa nhan đề này thật ra chẳng khác gì “cơn bão trong tách trà”, nhưng có lẽ Shakespeare nghĩ rằng gọi như thế dễ khiến bá tánh tò mò, háo hức mua vé vào xem kịch chăng?

3.2. Bài viết dài rồi. Nên dừng lại, kẻo bạn đọc trách: Tiểu đề đại tố; đề tài nhỏ nhít mà tán ra tràng giang đại hải!

Nhiêu Lộc, 23-7-2023

Huệ Khải

Công Giáo và Dân Tộc, số 2403

tuần lễ từ 28-7 đến 03-8-2023

dể duôi; dễ duôi

 GIÓ BỐN PHƯƠNG - TẬP HAI (đang soạn)

dể duôi; dễ duôi

Hai chữ dể duôi viết dấu hỏi hay dấu ngã, thưa anh? 

– Hiền hữu Nguyễn Minh Ngọc (Gò Công). Tin nhắn Zalo ngày 25-7-2023.

Huệ Khải phúc đáp:

1. DỂ DUÔI (dấu hỏi) nghĩa là khinh thường, coi thường, coi rẻ, không xem là quan trọng (disrespecting; disregarding); đồng nghĩa với “dể ngươi”. Thí dụ:

Chỉ vì một phút dể duôi mà trọn đời ân hận.

Phải tôn kính Trời Phật, Thánh Thần; chớ có dể duôi. (Cũng nói: Chớ có dể ngươi.)

Người tu hành không được dể duôi giới luật.

1.1. Riêng chữ dể (dấu hỏi) sẵn có nghĩa là khinh, lờn, không kiêng nể, không tôn trọng. Nói ghép là “khinh dể”. Dùng biện pháp tách từ thì nói là kẻ khinh người dể” (không có dấu phẩy ngăn cách; nếu viết “kẻ khinh, người dể” thì sai).

1.2. Chưa thấy từ điển nào ghi nhận riêng lẻ chữ “duôi” như một mục từ, ngoại trừ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tome I (Sài Gòn: Imprimerie Rey, Curiol & Cie., 1895). Ở trang 251, để ghi chữ nôm cho “duôi”, Paulus Của mượn chữ (duy), nghĩa là chỉ có, và giảng như sau:

Duôi. [chữ nôm] Doi theo, dõi theo.

Duôi theo. id. [như trên]

Duôi duôi. Qua vậy, dừa theo. [Thí dụ:] Thầy nói duôi duôi, nó không sợ.

Dể duôi. Khinh dể.

Ghi chú: Ở trang 247, Paulus Của giảng “dừa theo” là “nương theo; thuận theo; coi tình ý mà theo”. Ở đây, ông ghi sai chánh tả; lẽ ra là “vừa”, không phải “dừa”. Cũng vậy, cùng trang này, ông viết sai “dừa ý; dừa lòng”, lẽ ra là vừa ý; vừa lòng”.

2. DỄ DUÔI (dấu ngã) chưa hề được từ điển tiếng Việt nào ghi nhận. Tuy nhiên các sư tăng Nam Tông, cũng gọi Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravāda) vẫn thường nói tới “dễ duôi” trong các bài thuyết giảng giáo lý.

Tham khảo một số bài giảng của quý sư Nam Tông, tôi tạm ghi nhận ba ý nghĩa thông dụng của “dễ duôi” như sau:

2.1. Dễ duôi là giải đãi, lười biếng, biếng nhác. Trái nghĩa với dễ duôi là tinh tấn.

2.2. Dễ duôi là nuông chiều, buông thả theo bản năng; không có ý chí kháng cự những đòi hỏi bất thiện của tham sân si hay thất tình lục dục; không biết chế ngự tánh kiêu căng, ngạo mạn của phàm ngã (bản ngã).

2.3. Không dễ duôi tức là luôn luôn ý thức kiểm soát (làm chủ) bản thân trong từng ý nghĩ (tư tưởng), lời nói, việc làm của mình để không phạm lỗi lầm, không tạo ba nghiệp xấu về ý, khẩu, và thân.

3. Mặc dù “dễ duôi” (dấu ngã) chưa từng được ghi nhận trong các từ điển tiếng Việt, nhưng không nên vì thế mà phủ nhận cách dùng hai chữ “dễ duôi” (dấu ngã) của Phật Giáo Nam Tông.

Cuối tháng 6-2023, Nguyễn Quang Thọ (sinh năm 1949) xuất bản Người Việt Nói Tiếng Việt (Nxb Tổng Hợp TpHCM, 384 trang 16x24cm). Trong sách này ông dẫn ra nhiều thành ngữ, tục ngữ, lời ăn tiếng nói quen thuộc trong dân gian xưa nay, nhưng chúng đều bị các nhà làm từ điển từ Bắc chí Nam bỏ sót.

Vậy, “dễ duôi” (dấu ngã) trót bị từ điển tiếng Việt bỏ sót thì chẳng phải là trường hợp cá biệt.

Thứ Năm, 20 tháng 7, 2023

Quân tử căng nhi bất tranh

GIÓ BỐN PHƯƠNG - TẬP HAI (đang soạn)

Quân tử căng nhi bất tranh

Thánh Huấn Hiệp Tuyển, quyển II, đàn cơ tại Tòa Thánh Châu Minh ngày 16-2-36 có bài “QUÂN-TỬ TRANG NHI BẤT TRANH, QUẦN NHI BẤT ÐÃNG”. Trong bài này Đức Lý Thái Bạch dạy: Có câu của đức Khổng-Thánh dạy rằng: Quân-Tử trang nhi bất tranh, Quần nhi bất đãng!

Xin hỏi, câu nói ấy của Đức Khổng Thánh được chép trong sách nào? Đạo hữu Hương Lý. Điện thư ngày 20-7-2023.

HUỆ KHẢI phúc đáp:

Tôi giở Thánh Huấn Hiệp Tuyển, quyển II, bản in năm Tân Sửu (Sài Gòn: ấn quán Công Lý, 1961), tr. 135, xem lại bài đạo hữu nói tới, và thấy in như sau:

QUÂN-TỬ TRANG NHI BẤT TRANH, QUẦN NHI BẤT ÐÃNG

Lão cần nhắc điều cần yếu, trong toàn thể Đạo nên nhớ câu nầy vào lòng, thì mới giữ vững lập trường Đạo-Đức Thuần-túy được. Có câu của đức Khổng-Thánh dạy rằng: Quân-Tử trang nhi bất tranh, Quần nhi bất đãng! Nghĩa là: người Quân-Tử trang nghiêm, nhưng không tranh với ai, hộp quần với tất cả mọi người, nhưng không vào bè đãng, nghĩa là chí của người quân-tử tự mình trang nghiêm, theo lý công nhiên mà đối xử chớ không thiên lệch, tư vị; xử thế thì thân ái với tất cả mọi người, nhưng không vì tình riêng mà a tùng theo bè đãng cầu lợi.

Người tu học nên hiểu lý nghĩa ấy, để thực hành cho đúng con đường trung dung trong giai đoạn gay go chênh lệch nầy.

(Xem ảnh đính kèm.)




1. Thưa đạo hữu, phần lớn kinh sách nhà Đạo chúng ta thường in sai chánh tả (nhiều nhất là sai dấu hỏi và dấu ngã), viết hoa không hợp lý, bộ phận điển ký (và sao chép) chấm câu thiếu chính xác, v.v... Đó là các lỗi phổ biến. Đọc kinh sách nhà Đạo thấy thế mà thương mà xót.

Ngoài ra, dấu gạch nối hay dùng thuở trước thì nay đã bỏ rồi. Vậy, bài thánh giáo ở trang 135 như nói trên có thể hiệu đính lại như sau:

QUÂN TỬ CĂNG NHI BẤT TRANH, QUẦN NHI BẤT ÐẢNG

Lão cần nhắc điều cần yếu, trong toàn thể Đạo nên nhớ câu nầy vào lòng, thì mới giữ vững lập trường đạo đức thuần túy được.

Có câu của Đức Khổng Thánh dạy rằng: Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng. Nghĩa là người quân tử trang nghiêm, nhưng không tranh với ai; hợp quần với tất cả mọi người, nhưng không vào bè đảng. Nghĩa là chí của người quân tử tự mình trang nghiêm, theo lý công nhiên mà đối xử chớ không thiên lệch, tư vị; xử thế thì thân ái với tất cả mọi người, nhưng không vì tình riêng mà a tùng theo bè đảng cầu lợi.

Người tu học nên hiểu nghĩa lý ấy để thực hành cho đúng con đường trung dung trong giai đoạn gay go, chênh lệch nầy.

Ngoài ra, bản in này ghi ngày 16-2-36, tức là 16 tháng 02 âm lịch (Tân Sửu), năm Đạo thứ 36, nhằm Thứ Bảy 01-4-1961.

2. Câu Quân tử căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng.có chép trong sách Luận Ngữ, thiên Vệ Linh Công 衛靈公, câu 22. Nguyên văn: 子曰: 君子矜而不爭, 而不黨.

2.1. Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) dịch:

Khổng Tử nói: “Người quân tử nghiêm trang giữ lập trường mà không tranh với ai, hòa hợp (cộng tác) với mọi người mà không bè đảng.”

2.2. James Legge (1815-1897) dịch:

The Master said, The superior man is dignified, but does not wrangle. He is sociable, but not a partisan.

2.3. A. Charles Muller (sanh năm 1953) dịch:

The Master said: “The noble man is firm in his positions, but does not wrangle. He readily makes friends, but doesn’t belong to a clique.”

2.4. Giải nghĩa từ ngữ: 1/ Căng : Trang nghiêm (dignified). 2/ Quần : Hợp quần 合群; sống hòa đồng với người khác (getting on well with others). 3/ Đảng : Kéo bè kết đảng (joining a political party, or a gang).

*

Thứ Tư, 19 tháng 7, 2023

TẤC LÒNG TẤC DẠ

 

CHỮ VÀ NGHĨA: TẤC LÒNG TẤC DẠ

HUỆ KHẢI

1. Không những nói “tấm lòng”, người Việt còn nói “tấc lòng”. Đây là lối nói văn vẻ, thường thấy trong văn học. Chẳng hạn:

1.1. Truyện thơ Nhị Độ Mai (khuyết danh tác giả) có chín câu như sau:

153. Tấc lòng xem bẵng mẹ cha. (xem bẵng: xem như; xem bằng)

336. Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai.

972. Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng.

1027. Tấc lòng thề với trời cao.

1101. Tấc lòng kính kẻ trung can.

1227. Tấc lòng cả quyết khôn cầm.

1964. Tấc lòng e chửa xứng ngôi đông sàng.

2574. Bước chân xa cách, tấc lòng quặn đau.

2650. Tấc lòng công chính, mấy phen nhọc nhằn.

1.2. Thuật Hứng (bài 5), thơ nôm của Nguyễn Trãi, có câu:

Bui một tấc lòng ưu ái cũ / Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông. (“Bui” nghĩa là chỉ có; như chữ “duy”.)

1.3. Truyện Kiều của Nguyễn Du có hai câu này:

451. Tóc tơ căn vặn tấc lòng.

2245. Tấc lòng cố quốc tha hương.

Thay vì nói “tấc lòng vàng”, Nguyễn Du rút gọn:

772. Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng.

Cũng thế, thay vì nói “tấc lòng thành”, Nguyễn Du rút gọn:

343. Khuôn thiêng dầu phụ tấc thành.

374. Cần dâng một lễ xa đem tấc thành.

1.4. Nhưng trong 2082 câu Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu không hề dùng “tấc lòng” hay từ đồng nghĩa là “tấc dạ” mà ca dao từng dùng:

Bước xuống ruộng sâu, sầu đầy tấc d

Tay ôm bó mạ, nước mắt hai hàng

Ai làm trễ chuyến đò ngang

Cho sông cạn nước, đôi đàng biệt ly?

1.5. Nhị Độ Mai chỉ dùng “tấc dạ” một lần duy nhất:

1115-1116. Trông theo tấc dạ thêm càng / Tả lòng lại ngụ luật Đường bốn câu.

2. “Tấc lòng” hay “tấc dạ” là cách người Việt mượn hai chữ “thốn tâm” 寸心.

Năm 767 Đỗ Phủ viết bài Ngẫu Đề 偶題 (ngẫu hứng làm thơ), dài bốn mươi bốn câu ngũ ngôn, mở đầu như sau:

Văn chương thiên cổ sự / Đắc thất thốn tâm tri.

文章千古事 / 得失寸心知.

Ngàn xưa cái chuyện văn chương / Nên hư riêng chỉ tấc lòng biết thôi. (HK dịch)



2.1. Nói “thốn tâm” (tấc lòng, tấc dạ), thì “thốn” là gì?

“Thốn” là một đơn vị đo chiều dài (unit of linear measurement) của người Hoa ngày xưa. Diễn tả lòng dạ đau thương cùng cực (cõi lòng tan nát), người Hoa nói can tràng thốn đoạn 肝腸寸斷 (ruột gan đứt ra từng khúc chừng một “tấc”).

Một “thốn” (tấc) dài bao nhiêu? Độ dài của nó căn cứ theo các ngón tay như sau (xem minh họa):



Cơ thể con người to nhỏ khác nhau, bàn tay nam nữ lớn bé khác nhau; thế nên, cách đo này không hoàn toàn chính xác, xê xích chút ít. Tuy nhiên, một “thốn” thường được người Hoa cho là khoảng chừng 3,3cm; thế rồi tiếng Anh dịch “thốn” là “inch” (tương đương 2,54cm) thì từ “thốn” sang “inch” lại chênh nhau gần 1cm chứ ít đâu. Chả trách tiếng Latin có câu: “Traduttore, traditore. (Dịch là phản.)

Thoạt nghe nói “thốn” là “tấc”, phần đông người Việt dễ liên tưởng tới “tấc tây”. Không đúng đâu; một tấc tây (1dm) bằng 10cm, tức là 0,1 mét. Gọi theo người Hoa thì “tấc tây” là “công thốn” 公寸; chữ “công” có nghĩa như “công ước” 公約 (international agreement: thỏa thuận chung của quốc tế).

2.2. Với ý nghĩa nói trên, “thốn” (tấc) là cái cụ thể, cái hữu hình; tại sao lại gắn nó với “tâm” (lòng dạ) là cái trừu tượng, cái vô hình?

Thật ra, khi nói “thốn tâm” (tấc lòng, tấc dạ), cả người Hoa và người Việt đều không nghĩ tới cái độ dài “thốn” (tấc). Ở đây, “thốn” (tấc) không phải là danh từ chỉ đơn vị đo chiều dài nữa. Ở đây, “thốn” (tấc) dùng như tính từ (hình dung từ) với ý nghĩa là “chút ít; nhỏ nhít; ít ỏi” (small; tiny).

Vì thế, người Việt nói “chút lòng thành” với ý khiêm tốn (chút ít) thì nào khác chi hai chữ “tấc thành” hàm ngụ ý nghĩa “ít ỏi, nhỏ nhít” của chữ “thốn” (tấc).

2.3. Ngoài ra, “thốn” (tấc) còn có nghĩa bóng là rất ngắn ngủi (vắn vỏi) nên tiếng Pháp dịch “thốn” là “très court”.

Với nghĩa ngắn ngủi, người Hoa nói “thốn bộ nan hành寸步難行 (bước ngắn khó đi xa).

Từ cái nghĩa ngắn ngủi, “thốn” (tấc) được kết hợp với thời gian. “Quang âm” là ánh sáng (quang ) và bóng tối (âm ); nghĩa bóng là thời gian. Đàn bà đang xuân đều sợ thời gian dần trôi, sắc đẹp theo đó phôi pha. Chinh Phụ Ngâm có câu:

345-346. Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở / Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.

Nguyễn Khuyến làm bài thơ thất ngôn bát cú nhan đề Xuân Nhật Thị Gia Nhi 春日示家兒 (Ngày Xuân Dạy Trẻ Trong Nhà). Hai câu kết (7-8) là:

Đối thử quang âm hà dĩ úy / Chư nhi do tự tửu ca hàm?

對此光陰何以慰? / 諸兒猶自酒歌酣.

i vi thi gian ly chi an i / Các con sao cứ ca hát say sưa?)

Kết hợp “thốn” (tấc) với “quang âm”, người Hoa nói “thốn âm” và người Việt nói “tấc bóng”. Chẳng hạn:

thốn âm khả tích 寸陰可惜 (tấc bóng đáng tiếc).

Hai chữ “tấc bóng” rất thi vị, diễn tả khoảng thời gian ngắn ngủi của kiếp người, nó trôi qua mau chóng mà chẳng làm sao chuộc lại (bù đắp lại) thời gian đã mất.

Trong hai câu thơ chữ Nho dẫn trên, Nguyễn Khuyến không nói “thốn âm” mà lúc tự dịch sang thơ nôm, Tam Nguyên Yên Đổ lại dùng “tấc bóng” như sau:

Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng / Sao con đàn hát vẫn say sưa?

Câu thơ Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng quả là tuyệt cú.

3. “Thốn tâm” còn kết hợp với số ba để thành “tam thốn tâm” 三寸心 (lòng ba tấc). Nhưng đừng nghĩ rằng “tam thốn tâm” là lòng dạ có kích cỡ 3x3,3cm hay 3 inches.

3.1. Số ba là hư số (phiếm định), không có nghĩa là tổng số của một cộng hai (1+2). Trong lời ăn tiếng nói, người Việt dùng số ba diễn tả số lượng không đáng kể. Chẳng hạn:

Ăn ba ht cho đỡ đói. (Ăn cơm qua loa, sơ sài.)

Lai rai ba si giải sầu. (Nhậu sương sương.)

Nói láp dáp ba hồi rồi ngủ khì. (Nói một lúc, không lâu.)

Từ nghĩa ít ỏi về số lượng như trên lại chuyển sang nghĩa nhỏ nhít, không đáng kể, hàm ý coi thường. Chẳng hạn:

Mới ba tuổi ranh mà bày đặt gái gú!

Sá gì ba cái chuyện lẻ tẻ đó mà bận lòng mệt trí!

3.2. “Tam thốn” (ba tấc) được dùng theo nghĩa coi thường như nói trên. Chẳng hạn:

Chớ hòng uốn ba tấc lưỡi mà chiêu dụ kẻ này quy hàng!

Ba tấc lưỡi tức là tam thốn thiệt三寸舌 (three-inch tongue).

“Tam thốn khí” (ba tấc hơi thở) diễn tả sinh mạng con người vắn vỏi, nay còn mai mất. Người xưa có câu:

Tam thốn khí tại thiên ban dụng; nhứt đán vô thường vạn sự hưu.

三寸氣在千般用; 一旦無常萬事休.

(Ba tấc hơi còn thì làm được ngàn thứ [đủ thứ]; một mai chết đi thì muôn việc [mọi việc] đều ngưng.)

Do đó, “tam thốn tâm” diễn tả lòng dạ con người tuy nhỏ hẹp, bé tẹo, thế mà thói thường lại hay man trá, gian xảo, nham hiểm khôn lường. Bởi vậy, ca dao có câu: “Dò sông dò biển dễ dò / Mấy ai lấy thước mà đo lòng người.” Hoặc: “Nào ai lấy thước mà đo lòng người.”



Bài vọng cổ “Đời” (danh ca Út Trà Ôn hát) có lẽ đã cải biên ca dao một chút: “Dò sông dò biển dễ dò / Đố ai bẻ thước mà đo lòng người.” Cải biên như vậy thì nghe thấm thía hơn ca dao ở hai chữ “bẻ thước”.

Trên mạng gần đây phổ biến một thánh giáo tiếp nhận tại Thiên Lý Bửu Tòa (California, Mỹ) ngày 28-7-1982; hôm ấy Đức Cao Đài Thượng Đế dạy một môn sanh như sau:

Ng. Ch. Th. suy thầm cho rõ

Đáy biển sâu cũng có người đo

Đáy lòng ba tấc khó dò

Chim khôn tránh đặng bẫy dò mới khôn.

“Đáy lòng ba tấc” chính là “tam thốn tâm” (three-inch heart) đấy thôi.

Nhiêu Lộc, 15-7-2023

HUỆ KHẢI

Tuần san CGvDT, số 2402

tuần lễ từ 21 đến 27-7-2023