Chủ Nhật, 15 tháng 10, 2017

2. CÁI ĐẸP THEO MỸ HỌC CAO ĐÀI


CÁI ĐẸP THEO MỸ HỌC CAO ĐÀI
1. Một khái niệm đơn giản về mỹ học
Trong mấy thế kỷ trước Công Nguyên, bản thảo các triết gia Hy Lạp lỗi lạc như Pythagoras, Heraclitus, Socrates, Democritus, Plato, và Aristotle, v.v... đã bàn về “cái đẹp”. Về sau, tư tưởng các triết gia ấy dần dần khơi nguồn cho việc hình thành những nguyên lý ban sơ về cái đẹp, nhưng thoạt kỳ thủy chưa có thuật ngữ “mỹ học”.
Đến thế kỷ 18 thuật ngữ mỹ học xuất hiện và mỹ học trở thành một ngành triết học chuyên tìm tòi bản chất và cách biểu hiện cái đẹp cũng như những cách tiếp cận cái đẹp. Sự nghiên cứu mỹ học thời nay rất phong phú, và có nhiều ý nghĩa đối với sinh hoạt con người. Mỹ học dường như có mặt ở mọi lĩnh vực, đến nỗi có những điều người ta hay bàn bạc với nhau mà không ngờ chúng đều liên quan tới mỹ học. Cho nên đừng lạ rằng nhiều chủ đề xưa nay thuyết giảng trong các cộng đồng Cao Đài thường chỉ cho là giáo lý, nhưng thật ra đấy cũng là một phần của mỹ học Cao Đài.
2. Có mỹ học Cao Đài thật không?
Giáo lý Cao Đài có sẵn những thuộc tính thuộc về triết học. Do đó, dĩ nhiên có triết học Cao Đài, và trong triết học Cao Đài tất nhiên bao hàm mỹ học Cao Đài. Vấn đề gay go là tất cả những gì liên hệ đều chưa được khám phá và khai thác đủ đầy, nên chưa được phát triển để thành hệ thống xứng danh là triết học hay mỹ học Cao Đài. Đây là hệ quả đương nhiên của một nền đạo hãy còn quá mới mẻ mà lại sớm phân ly rời rạc.
3. Định nghĩa “tu hành” theo mỹ học Cao Đài
Mỹ học không chỉ nghiên cứu về cái đẹp; tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung vào cái đẹp, căn cứ trên các thánh ngôn có thể xem là phản ánh quan điểm mỹ học Cao Đài.
Đạo Cao Đài dạy con người biết tu hành. Nguyên nghĩa chữ tu là sửa chữa cho tốt đẹp hơn; như vậy hàm ngụ cái đẹp trong đó. Tu hành còn được định nghĩa là hoàn thiện hóa bản thân, hay hơn thế nữa là thánh hóa bản thân. Theo ý nghĩa sau, cái đẹp được phát huy tối đa.
Giáo lý Cao Đài xác định rằng con người (tiểu linh quang) vốn có nguồn gốc từ Thượng Đế (Đại Linh Quang). Thế thì Thượng Đế và con người có cùng bản thể, đó là “linh quang” (ánh sáng thiên liêng). Trong một đàn cơ tại Thiên Lý Đàn (quận 10, Sài Gòn) ngày 04-02-1966, Đức Cao Đài Thượng Đế dạy:
Con là một thiêng liêng tại thế,
Cùng với Thầy đồng thể linh quang.
Là ánh sáng thiêng liêng (tức đồng thể với Thượng Đế) không có nghĩa con người đã hoàn thiện, hoàn mỹ cả rồi. Vậy, nói theo ngôn ngữ mỹ học, tu hành là trau giồi cái đẹp hàm tàng ở con người trong cuộc sống hàng ngày cả về mặt nhân sinh và tâm linh. Khi cái đẹp được phát huy thành công tột bực, con người trở thành bất tử với mỹ hiệu là Tiên là Phật, v.v... Kết quả phát huy thành công tột bực cái đẹp nơi con người còn được giáo lý Cao Đài gọi là “phối Thiên” (hiệp cùng Trời).
Trên đây nói rằng tu hành là trau giồi cái đẹp ở con người trong cuộc sống hàng ngày cả về mặt nhân sinh và tâm linh. Như vậy cái đẹp được được phát huy theo hai chiều hướng: hướng nội hay tâm linh, và hướng ngoại hay nhân sinh. Chiều hướng thứ nhất không gì khác hơn là nghĩa vụ hay bổn phận của mỗi cá nhân đối với chính bản thân. Chiều hướng thứ hai bao hàm những nghĩa vụ hay bổn phận của mỗi cá nhân đối với gia đình, xã hội, quốc gia, và thế gian.
Rõ ràng, cái đẹp được tìm kiếm, xây dựng theo mỹ học Cao Đài không phải là cái đẹp trừu tượng, chung chung. Trái lại, mỹ học Cao Đài giúp con người đi tìm và đạt được cái đẹp thông qua những hoạt động thực tiễn trong cuộc sống và cái đẹp ấy được minh chứng bằng chính cuộc sống thường nhật của mỗi người trong các mối tương quan giữa cá nhân và cộng đồng. Cộng đồng ấy gần gũi nhất chính là gia đình, rồi mở rộng ra lần lượt là xã hội, đất nước, thế gian. Cái đẹp của người tu đạt đạo là làm sao hài hòa được cái riêng với cái chung hay cá nhân với cộng đồng.
4. Cái đẹp của cá nhân
Giáo lý Cao Đài giúp mỗi người những nguyên tắc tu thân, tức là xây dựng cái đẹp cho cá nhân mình. Khi cá nhân được tốt đẹp rồi thì cái đẹp ấy sẽ ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng chung quanh. Trong một đàn cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận 4, Sài Gòn) ngày 13-6-1970, cái đẹp từ cá nhân tác động sang cộng đồng được Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt diễn tả như sau:
Tu cá nhân phong trào biến đổi,
Người nên rồi xã hội cũng nên.
Thực vậy, một cộng đồng tốt đẹp phải được cấu thành từ những cá nhân đẹp tốt. Trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (quận 1, Sài Gòn) ngày 18-11-1971, Đức Phạm Hộ Pháp nhắc nhở:
“Các em nhớ rằng một phần tử của đất nước là một quan trọng ở tương lai. Nếu phần tử ấy xấu hoặc tốt, nên hoặc hư, thì tương lai nước non dân tộc sẽ do ảnh hưởng đó.”
Mỹ học Cao Đài không tán thành cái đẹp riêng lẻ. Điều này hàm ngụ trong cụm từ “tu thân hành đạo” và “hành đạo độ đời”, v.v… vốn được nhắc nhở rất nhiều trong giáo lý Cao Đài.
Hai cụm từ vừa dẫn trên có thể dùng để đính chính sự ngộ nhận rằng người đi tu là thiếu trách nhiệm với cộng đồng, là xao lãng nghĩa vụ với đất nước. “Hành đạo” theo giáo lý Cao Đài là nhận lãnh trách nhiệm với cộng đồng. Trong đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày 24-3-1972, Đức Minh Đức Đạo Nhơn làm sáng tỏ ý nghĩa chân chính của hai chữ “hành đạo” như sau:
“Đừng ai tưởng rằng mình hành đạo là để tu thân mà thôi, nếu tu được thì tốt riêng cho mình, không tu được thì cũng chẳng làm hại chi ai. Nếu tưởng vậy là sai lầm. Hành đạo đâu chỉ đóng khung trong thánh thất, thánh đường, chùa chiền, am tự. Hành đạo là xây dựng cả một thế hệ và những thế hệ tiếp nối mãi mãi. Hành đạo là gieo giống lành cho đất nước, cho dân tộc đó vậy.
Như thế, cái đẹp đúng nghĩa của người tu hành chơn chánh là cái đẹp vị tha, xuất phát từ tâm hồn quảng đại có lý tưởng phụng sự. Trong một đàn cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 05-4-1965, để giúp con người biết vươn lên khỏi cái đẹp vị kỷ, Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt dạy:
Bầu vũ trụ có dân có nước,
Chẳng riêng mình hưởng phước hưởng duyên.
Một kẻ bạc bẽo với gia đình, tổ tiên thì ai dám tin rằng hắn thật lòng thương yêu đồng bào, tổ quốc? Cho nên, xây dựng cái đẹp cho bản thân thì đừng quên cội nguồn gần gũi nhất của mình là gia đình, tổ tiên. Trong một đàn cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 29-6-1974, Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt dạy:
Ơn dân chớ phụ ơn nguồn gốc,
Nghĩa nước đừng quên nghĩa tổ tiên.
Nói như vậy không có nghĩa đem gia đình, tổ tiên hay quốc gia, dân tộc làm trung tâm cho mọi hoạt động. Theo giáo lý Cao Đài, con người hãy biết vươn tới thế giới bao la, nhân loại muôn màu. Trong một đàn cơ tại Trước Lâm Thánh Đức Thiền Điện (nay thuộc thành phố Vĩnh Long) ngày 02-5-1971, Đức Thánh Phan Thanh Giản ví tất cả mọi sắc tóc màu da như trăm nghìn cánh hoa muôn vẻ cùng xuất phát từ một cội cành duy nhất (Thượng Đế): “Vạn đóa hoa thơm một cội cành”, và sau đó Ngài dạy con người hãy biết hòa hài giữa đất nước và thế giới, đồng bào và đồng loại:
Tình non đi với tình nhơn loại,
Nghĩa nước chung nguồn nghĩa chúng sinh.
Trong một đàn cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 11-02-1973, cái đẹp tuyệt trần của người hành đạo chơn chánh được Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt diễn tả như sau:
“Một cuộc đời đáng sống khi hướng ngoại thì lo giúp thế độ đời, lúc trở về tâm nội thì trau dồi đức hạnh, tu đức tu công, mưu cầu ích chúng lợi dân, xây dựng nếp sống hiệp hòa trong thiên hạ.”
Để được một đời sống đạo đức như thế, lòng người phải vô kỷ, vô công. Trong một đàn cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 16-6-1967, Đức Lê Đại Tiên Lê Văn Duyệt khuyên:
“Phải xem mình như hạt bụi lưng trời, xem thiên hạ như bể rộng bao la.”
Để đạt được cái đẹp vị tha và vô kỷ, con người cần một thái độ đúng đắn. Trong một đàn cơ tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài ngày 01-12-1967, Đức Cao Triều Phát dạy về thái độ đó như sau:
“Xem mọi người là mình, mình là mọi người, không phân biệt.
Tiếp theo thái độ đúng đắn đó, cần có hành vi đúng đắn. Trong cùng đàn cơ nói trên, Đức Cao Triều Phát dạy:
“Thương người, hoàn hảo hóa người. Thương ta, hoàn hảo ta.”
Hai câu thánh ngôn ngắn gọn này hàm chứa cả cái đẹp của cá nhân và cái đẹp của cộng đồng.
“Thương người, hoàn hảo hóa người” tức là xây dựng cái đẹp của cộng đồng.
“Thương ta, hoàn hảo ta” tức là xây dựng cái đẹp của cá nhân.
5. Cái đẹp của cộng đồng
Cái đẹp của cá nhân và cái đẹp của cộng đồng có tác động qua lại. Không có những cá nhân tốt thì không cấu thành một cộng đồng tốt. Nếu chỉ có một cá nhân tốt trong một cộng đồng xấu thì tình trạng đó chẳng khác gì một sợi chỉ đẹp đem thêu vào mảnh vải bẩn. Ngược lại, nếu cả cộng đồng tốt mà cá nhân xấu thì ảnh hưởng của cộng đồng sẽ tác động tích cực đến cá nhân ấy.
Hiểu được tác động qua lại giữa cá nhân và cộng đồng, thì cũng hiểu thêm tương quan giữa biệt nghiệp cộng nghiệp.
Trong phần kết Truyện Kiều, Nguyễn Du (1766-1820) viết:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa.
Cái nghiệp trong hai câu thơ dẫn trên là nghiệp riêng (biệt nghiệp) do mỗi cá nhân tự chuốc cho bản thân.
Người tu hành có mục đích giải trừ cho bản thân nghiệp riêng. Nhưng mỗi người còn là phần tử của cộng đồng nên tất nhiên còn phải chia sẻ nghiệp chung của cả cộng đồng. Nghiệp chung (cộng nghiệp) này là tổng số các nghiệp riêng (biệt nghiệp) của tất cả phần tử cấu thành cộng đồng đó. Mỗi người phải chịu cộng nghiệp đến từ gia đình, xã hội, quốc gia, và hoàn cầu thế giới. Trong một đàn cơ tại Trước Lâm Thánh Đức Thin Đin ngày 11-5-1970, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư minh xác:
Trót sinh giữa chốn trần hồng,
Cái cơ cộng nghiệp chung đồng thế nhân.
Do đó, giải trừ biệt nghiệp thì chưa đủ. Người tu hành chơn chánh còn phải tích cực giải trừ cộng nghiệp bằng cách hành đạo độ đời, song hành tự độ và độ tha, tức là xây dựng cái đẹp của mình và của cộng đồng. Đây là một đặc trưng trong cách tu hành của người đạo Cao Đài. Trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày 10-10-1973, Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
“Những gì trước mắt bên tai của chư hiền, hoặc đang xảy đến hoặc sắp xảy đến, đó là lẽ tất nhiên của sự cộng nghiệp của một dân tộc. Thế nên, trong sự cộng nghiệp đó, mỗi một người biết tu thân hành đạo là tự cổi bỏ lần bớt nghiệp cá nhân của mình. Một tập thể biết tu thân hành đạo là tự cổi bỏ bớt nghiệp của tập thể. Một dân tộc biết tu thân hành đạo là tự mình muốn cổi bỏ nghiệp tiền khiên của một quốc gia, dân tộc.
*
Qua bước đầu khảo sát cái đẹp theo mỹ học Cao Đài có thể thấy rằng:
- Cái đẹp chân chính là cái đẹp đạt được thông qua sinh hoạt thực tiễn hàng ngày nhằm hoàn thiện cộng đồng và hoàn thiện bản thân mỗi cá nhân là thành viên cộng đồng đó.
- Sống đạo tức là sống đẹp bởi vì mỹ học Cao Đài không dẫn dắt con người rời xa cộng đồng, mà ngược lại là giúp con người đến gần với con người nhiều hơn, gắn bó cuộc sống để yêu người, yêu đời, làm cho cái đẹp nở hoa trong cuộc sống.
- Cái đẹp theo mỹ học Cao Đài rất cụ thể và gần gũi. Cái đẹp có thể được đạt được hàng ngày bằng cách xác định đúng đắn cho mỗi cá nhân một thái độ, tình cảm, trách nhiệm trong tương quan với gia đình, bà con bè bạn, đồng bào đồng loại.
- Cái đẹp theo mỹ học Cao Đài tuy chưa được khám phá trọn vẹn trong tiểu luận này, nhưng có lẽ tạm đủ để giúp soi sáng mục đích nhân bản của đạo Cao Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ. Mục đích này được Đức Giáo Tông Đại Đạo Lý Thái Bạch minh định trong một đàn cơ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày 23-8-1972 như sau:
“Mục đích Cao Đài trong Tam Kỳ Phổ Độ không chủ trương đơn thuần cho các hàng tín hữu thành Phật, Tiên, Thánh để an hưởng cõi thiêng liêng rồi quên nhiệm vụ hiện tại là xây đời thuần lương thánh thiện trong tình thương, trong hòa đồng, trong đạo đức để tròn câu hạnh phúc gia đình, hạnh phúc dân tộc quốc gia, và hạnh phúc cho nhân loại.
21-7-1986
Sửa chữa, 29-9-2017
HUỆ KHẢI
Ghi chú:
* Tiểu luận này nguyên là một phần bài nói chuyện của tôi tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo vào sáng Thứ Hai 21-7-1986.
* Để tìm hiểu thêm về đạo Cao Đài, có thể tham khảo các tập sách song ngữ Việt-Anh của Huệ Khải, liên kết ấn tống tại hai nhà xuất bản Tôn Giáo và Hồng Đức (Hà Nội) từ năm 2008 tới nay. Xem trang 32 ở cuối sách này. Ngoài ra, có thể truy cập các văn bản điện tử tại:
http://chungtayantong.blogspot.com
http://daidaovanuyen.blogspot.com
http://huekhai.blogspot.com
http://understandingcaodaism.blogspot.com

 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.

1. GIAO CẢM / CÁI ĐẸP THEO MỸ HỌC CAO ĐÀI


ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo
The Programme of Joining Hands
for Free Caodai Publications
________
HUỆ KHẢI
(Dũ Lan LÊ ANH DŨNG)
CÁI ĐẸP THEO MỸ HỌC CAO ĐÀI
BEAUTY IN TERMS OF
THE CAODAI AESTHETICS
In lần thứ nhất
Nhà xuất bản HỒNG ĐỨC
Hà Nội 2017
Quyển 112.1 trong Chương Trình Chung Tay
Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo - SÁCH KHÔNG BÁN.
NỘI DUNG
CÁI ĐẸP THEO MỸ HỌC CAO ĐÀI
Giao cảm
1. Một khái niệm đơn giản về mỹ học
2. Có mỹ học Cao Đài thật không?
3. Định nghĩa “tu hành” theo mỹ học Cao Đài
4. Cái đẹp của cá nhân
5. Cái đẹp của cộng đồng
Sách song ngữ đọc thêm để hiểu đạo Cao Đài
Ó 2017 All rights reserved
Huệ Khải (Dũ Lan Lê Anh Dũng)

*
GIAO CẢM
Tiếp nối Tâm Lý Người Đạo Cao Đài, tôi ấn tống tập sách mỏng manh này để thêm một đóng góp nhỏ bé mà đầy thiện chí nhằm xây dựng bước đầu tủ sách liên ngành dùng làm tài liệu tham khảo tạm thời, nhất là khi Học Viện của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài đã thành lập ở thành phố Đà Nẵng và đang nỗ lực đưa vào giảng dạy một vài môn học đặc thù như triết học Cao Đài, Anh ngữ ứng dụng cho nghiên cứu Cao Đài, v.v… trong lúc thư tịch Cao Đài về các lãnh vực hàn lâm này dường như hãy còn quá đỗi khiêm tốn.
Tôi chân thành bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Tú Đoàn, một bạn đồng nghiệp tinh tế, giúp tôi đọc lại bản thảo tiếng Anh và điều chỉnh giùm chữ nghĩa.
Tôi hết lòng biết ơn quý vị mạnh thường quân đáng kính đã ủng hộ Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo, nhờ vậy hàng ngàn bản in này được đến tay quý đạo hữu.
Con cầu xin Thầy ban ơn lành đến quý ân nhân của con, và cửu huyền thất tổ những vị con mãi mang ơn.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
HUỆ KHẢI
Trung Thu 2017


*
 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.

Thứ Năm, 5 tháng 10, 2017

3. TÂM LÝ NGƯỜI ĐẠO CAO ĐÀI TỪ GÓC NHÌN TÂM LÝ NGƯỜI VIỆT


 TÂM LÝ NGƯỜI ĐẠO CAO ĐÀI

TỪ GÓC NHÌN TÂM LÝ NGƯỜI VIỆT


Tâm lý người Việt bao gồm những tính cách gì? Đây quả là câu hỏi không dễ trả lời. Có lẽ vì thế mà trong tập sách mong mỏng xuất bản năm 1993 với nhan đề Tâm Lý Dân Tộc: Tính Cách Và Bản Sắc, Phạm Bích Hợp không đưa ra một liệt kê nào cả, ngoại trừ năm tính cách bà dẫn từ Nguyễn Hồng Phong (tr. 75). Thiếu sót này dường như được bù đắp phần nào với Tâm Lý Người Việt Nam Nhìn Từ Nhiều Góc Độ, xuất bản năm 2000, do Phạm Bích Hợp chủ biên.
Tuy dày dặn hơn, quyển sau vốn là hiệp tuyển gồm nhiều người viết nên tất nhiên thiếu tính hệ thống và vẫn chưa phải là đáp án mong đợi cho câu hỏi nêu ra ở đầu bài viết này. May là quyển sau có bài viết của Bùi Quốc Châu (tr. 172-173) tỉ mỉ kể ra ba mươi bảy tính cách vừa xấu vừa tốt, có thể nói là phần nào tương đồng với ý kiến của một số tác giả khác trong cùng quyển sách ấy.
Căn cứ vào hai quyển sách nói trên (theo thứ tự nhan đề được nói tắt là TLDT, TLVN), tôi tạm tuyển lấy sáu tính cách tâm lý tiêu biểu của người Việt vốn dĩ được đa số tác giả đồng thuận. Ở đây dĩ nhiên không nhắc lại những tính cách đã nói tới trong bài trước: “Mấy Nét Tâm Lý Của Người Đạo Cao Đài” (tr. 12-28). Dựa vào kết quả tuyển chọn ấy, tôi thử tìm hiểu tâm lý người đạo Cao Đài. Thứ tự trước sau của sáu tính cách tâm lý trình bày sau đây thật sự không là điều quan trọng.
*
1. Tâm lý cộng đồng
Tâm lý cộng đồng được xem là một nét tâm lý của người Việt (TLVN, tr. 61). Đặc biệt với cư dân ở Nam Kỳ (cái nôi của đạo Cao Đài), tâm lý cộng đồng có lẽ phát sinh từ nhu cầu quần cư trong buổi xa xưa; dần dần sự quần cư đơn giản ban sơ phát triển thành làng mạc để những người khai hoang mở đất vừa có thể xóa bỏ mặc cảm thân phận lưu dân (TLVN, tr. 157), vừa tạo được điều kiện nương tựa nhau trên đất mới, nơi họ phải thường xuyên đối trị thiên nhiên khắc nghiệt và cuộc sống vật chất quá đỗi thiếu thốn.
Tâm lý cộng đồng này tiềm tàng trong nếp hành đạo của người tín đồ Cao Đài, và có thể nhận thấy qua Tân Luật do Hội Thánh Cao Đài ban hành, với bản in đầu tiên (14 trang, 15x24cm), thực hiện tại nhà in Commerciale C. Ardin, Sài Gòn, năm 1927 [xem Phụ Bản 4]. Mặc dù trong thập niên 1930, tôn giáo Cao Đài tách ra thành nhiều nhánh, nhưng Tân Luật vẫn là luật chung cho hầu hết các nhánh này.


Đạo Cao Đài ra đời trong thời nước mất nhà tan, người đạo vừa thiếu thốn nhiều phương diện, vừa thường xuyên chịu sự bách hại của cả chánh quyền thuộc địa và triều đình Huế (xem: Huệ Khải, Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ 1928-1950 / Caodaism under Persecution in Central Vietnam 1928-1950. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012). Do đó tín đồ cần quy tụ lại để nương tựa nhau, cùng tồn tại và tăng trưởng. Việc lập họ đạo được Tân Luật quy định như sau:
Nơi nào có đông tín đồ được chừng năm trăm người sắp lên, thì được lập riêng một họ, đặt riêng một thánh thất, có một chức sắc làm đầu cai trị.” (Đạo Pháp, Chương III, Điều Thứ Mười Sáu.)
Lập họ để quy tụ tín chúng thì chỉ mới đảm bảo về phần hình thức hay xác thể. Để bền vững và tăng trưởng, mỗi họ đạo cần có cái tình, cái hồn. Muốn vậy, người cùng một họ đạo phải biết gần gũi nhau để kịp thời giúp nhau những lúc cần thiết, nhất là khi cưới hỏi, tang ma, hay nhằm cơn hoạn nạn, tai ương. Tân Luật quy định ba điều như sau (Thế Luật, Điều Thứ Năm, Mười Bốn, và Mười Chín):
(a) “Đối với hàng đạo hữu phải nuôi nấng cái tình thù tạc với nhau, cho khắn khít cái dây liên lạc. Trong hàng tín đồ còn ở thế phải nhớ hai dịp là tang và hôn.”
(b) “Trong bổn đạo xảy có người mãn phần quy vị thì chư tín đồ trong họ phải chung cùng đến giúp và chia buồn với tang chủ.”
(c) “Một người trong đạo gặp tai nạn thình lình, thì bổn đạo trong họ hãy tùy hỷ chung nhau, tư trợ cho qua lúc ngặt nghèo.”
Đám tang người đạo Cao Đài luôn luôn được chức sắc, chức việc, đồng đạo cùng nhau cử hành chu đáo, tận tâm và hoàn toàn miễn thù lao. Tang gia không được biếu tiền hay vật phẩm làm quà cho chức sắc, chức việc đến làm các bí tích và cử hành tất cả các nghi thức an táng (kể từ lúc khâm liệm cho tới khi lấp huyệt mộ) cũng như tất cả các lễ cầu siêu (từ lúc nhập quan, tiếp tục định kỳ suốt cho tới lễ mãn tang, kéo dài 581 ngày tính từ ngày chết). Nếu tang gia quá nghèo, họ đạo còn sốt sắng góp tiền giúp trang trải tất cả phí tổn. Nếu tang gia sung túc, tất cả tiền phúng điếu sẽ dùng làm công quả (từ thiện).
Tín đồ Cao Đài phần đông đều nghèo. Vì vậy, đối với thân nhân người mãn phần, tìm được chỗ an táng người quá cố không phải lúc nào cũng dễ dàng, đơn giản. Quy định sau đây của Tân Luật có thể xem như một gợi ý: “Mỗi họ cũng nên lập một nghĩa địa riêng.” (Thế Luật, Điều Thứ Mười Bốn.) Quả thật, trước năm 1975 nhiều họ đạo đã thực thi được quy định này.
2. Bè phái, phân biệt địa phương, thiếu đoàn kết, và cục bộ
Nghe như nghịch lý khi nói tâm lý cộng đồng hiện hữu song hành với đối lập của nó là tâm lý bè phái, phân biệt địa phương (TLVN, tr. 93), thiếu đoàn kết, và cục bộ (TLVN, tr. 99, 172, 173).
Vào thập niên 1930, sự phân ly trong đạo Cao Đài đã chia tách tôn giáo này ra nhiều nhánh. Mỗi nhánh tách riêng ra tất nhiên có yêu cầu phải gắng sức tăng trưởng, cũng như tạo nên thanh danh và uy tín cho riêng mình. Còn cái gốc ắt phải tự phòng thủ chặt chẽ nhằm ngăn ngừa sự phân ly lan rộng. Dần dần các nhánh phát triển thành Hội Thánh mới và đương nhiên đều bị cái gốc xem là không đúng chân truyền, là bàng môn tả đạo. Mỗi Hội Thánh (dù gốc hay nhánh) đều sẵn có một vài vị lãnh đạo nhiều uy tín và ảnh hưởng, thì họ lại càng cố gắng củng cố hơn nữa uy tín và ảnh hưởng các lãnh đạo của mình sao cho nổi bật hơn các lãnh đạo của nơi khác.
Ngày nay, thực trạng lịch sử của tôn giáo Cao Đài cho thấy hai tác động đối lập: Một mặt, trong khi cố gắng phát triển đạo trên phạm vi địa phương của mình, mỗi Hội Thánh thực sự góp phần hiệu quả làm đạo phát triển nhanh. Mặt khác, trái ngược lại, mỗi Hội Thánh càng cố gắng phát triển theo cách riêng của mình thì càng gia tăng thêm khoảng cách với các Hội Thánh khác, và càng gây thêm những cản trở trên con đường thống nhất đạo Cao Đài.
Từng Hội Thánh có thể có một số điểm mạnh, nhưng xét về tổng thể thì sức mạnh của cả nền tôn giáo Cao Đài đang bị phân tán rời rạc. Nếu Hội Thánh Cao Đài là một thực thể thống nhất và toàn vẹn, thì tất nhiên đạo Cao Đài có được sức mạnh tổng hợp để góp phần thâu ngắn hành trình và thời gian hoàn thành mục đích tối hậu hay cứu cánh của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
3. Trọng tình cảm gia đình, lấy gia đình làm gốc, làng xã là gia đình lớn (TLDT, tr. 82-83)
Tâm lý này của người Việt Nam bộc lộ trong hệ thống chức sắc đạo Cao Đài. Gia đình chung của tín đồ là họ đạo; gia đình lớn hơn cả là Hội Thánh. Đứng đầu Hội Thánh Cửu Trùng Đài là Giáo Tông, cũng gọi Anh Cả, và toàn thể tín đồ là các em. Thượng Đế (Thầy) là Cha thì Anh Cả có quyền thay Cha dạy dỗ các em, theo truyền thống xã hội Việt Nam. Vai trò này của Anh Cả (Giáo Tông) được quy định ngay khi mở đầu Tân Luật:
Trên hết có một phẩm Giáo Tông là Anh Cả có quyền thay mặt cho Thầy mà dìu dắt cả tín đồ trong đường đạo và đường đời.” (Đạo Pháp, Chương I, Điều Thứ Nhứt.)
Thấp hơn Giáo Tông bốn bậc là phẩm Giáo Sư. Theo Tân Luật, quan hệ của Giáo Sư với tín đồ là quan hệ anh em một nhà:
“Buộc Giáo Sư lo lắng cho chư tín đồ như anh ruột lo cho em. (...) Giáo Sư phải thân cận với tín đồ như anh em một nhà cần lo giúp đỡ.” (Đạo Pháp, Chương I, Điều Thứ Năm)
Trong phần thứ hai của Tân Luật là Thế Luật, mở đầu liền nhắc lại mối quan hệ giữa tín đồ và chức sắc là quan hệ giữa anh chị em chung một nhà, cùng chung một Cha (Thầy, Thượng Đế):
“Hễ thọ giáo với một Thầy thì tỷ như con một Cha, phải thương yêu nhau, liên lạc nhau, giúp đỡ nhau, lấy lòng thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường đạo và đường đời.” (Thế Luật, Điều Thứ Nhứt.)
Do tâm lý gia đình mà Tân Luật nhấn mạnh việc khuyên nhủ, bảo ban hơn là trừng phạt, chế tài. Cho nên sau khi đưa ra những điều ngăn cấm, Tân Luật quy định cách xử lý người vi phạm như sau:
Người nào trong đạo phạm một hay nhiều điều răn cấm trên đây, thì mấy người khác trong bổn đạo hay biết phải khuyên giải. Nếu chẳng nghe, phải đến tỏ cho người làm đầu trong họ hay, cho người để lời khuyến dạy.” (Thế Luật, Điều Thứ Hai Mươi Hai.)
4. Thích hội hè, mượn hội hè để giao tiếp với người cùng làng hay khác làng (TLDT, tr. 82-83)
Tâm lý này có thể xem là liên quan tâm lý cộng đồng của người Việt. Hiện hữu như một nét tâm lý của người đạo Cao Đài, sở thích giao tiếp với người cùng làng và khác làng trở thành sở thích giao tiếp người cùng họ đạo hay khác họ đạo.
Người Việt Nam rất thích hội hè. Theo một thống kê năm 2004 của Bộ Văn Hóa Thông Tin, quanh năm cả nước có 8902 lễ hội, trong đó có 7005 lễ hội dân gian truyền thống, và 1399 lễ hội tôn giáo (http://www.tienphong.vn). Vì vậy không lạ rằng người đạo Cao Đài cũng có nhiều lễ hội và lễ kỷ niệm của riêng mình. Có lễ chung cho toàn đạo Cao Đài, hoặc chỉ riêng cho một Hội Thánh [xem Phụ Bản 4]. Có lễ mang tính cách riêng của một họ đạo nhưng không giới hạn trong vòng tín hữu của chính họ đạo ấy; vì vậy, không cần thư mời, mọi đạo hữu đều được tiếp đón niềm nở.
Tác động tích cực của tập quán này trong đạo Cao Đài là tình tương trợ; thật vậy, mỗi khi đến dự lễ tại một họ đạo bạn, đạo hữu luôn luôn sẵn lòng góp tiền công quả (tiền hành hương). Nghĩa cử này tạo ra một nguồn tài chánh đáng kể lưu thông giữa họ đạo này với họ đạo khác, đặc biệt là giúp đỡ các họ đạo nghèo.
Mỗi dịp lễ thường kết hợp thuyết giảng giáo lý, vì vậy còn giúp tín đồ nâng cao hiểu biết. Nhờ thế họ có thể được bù đắp phần nào thiệt thòi nếu như họ đạo của chính họ không thể tổ chức thuyết đạo mỗi tháng vào hai kỳ sóc vọng, theo đúng quy định trong Tân Luật (Đạo Pháp, Chương III, Điều Thứ Mười Chín). Điều này giải thích vì sao người đạo Cao Đài không bao giờ coi việc đi dự lễ ở một họ đạo khác là dịp vui chơi, mà trân trọng mệnh danh là “liên giao hành đạo”. Bởi thế, người đạo sẵn lòng rời Sài Gòn từ sáng sớm để dự lễ tại các tỉnh Long An, Tiền Giang hay Bến Tre, v.v… hoặc ngược lại.
5. Hiếu hòa, chuộng thương lượng hơn là đấu tranh (TLVN, tr. 48)
Người đạo Cao Đài mặc đạo phục màu trắng. Màu trắng có thể phối hợp với bất kỳ màu nào khác. Do đó, người đạo Cao Đài thường hay nhấn mạnh đến ý nghĩa biểu tượng của màu trắng là tính hòa hiệp. Hơn thế nữa, muốn vào Bạch Ngọc Kinh (chỗ ngự của Đức Ngọc Hoàng trên thượng giới) phải nhờ vào tình hòa hiệp. Đức Cao Đài Thượng Đế dạy:
Hòa là một món báu linh,
Là chìa khóa mở Ngọc Kinh bước vào.
(Đại Thừa Chơn Giáo. Sài Gòn 1950, tr. 132.)
Đạo Cao Đài là một gia đình lớn, trong đó chức sắc và tín đồ đều là môn đệ cùng một Thầy (Thượng Đế), cũng là anh em chung một Cha. Thế nên sống ở đời giữa đồng đạo với nhau phải cho nhân nghĩa và hòa hiệp. Trong một đàn cơ ngày 20-02-1926, Đức Cao Đài Thượng Đế dạy:
Chẳng quản đồng tông mới một nhà,
Cùng nhau một Đạo tức cùng Cha.
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa.
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, 1964, tr. 8.)
Hòa hiệp không chỉ được nhấn mạnh ở giáo lý mà còn thể hiện ở giáo luật. Thông thường mọi việc tranh tụng đều dễ dàng phá vỡ hòa hiệp. Muốn duy trì hòa hiệp phải tránh kiện thưa. Vì mục đích này, trong gia đình thì cha khuyên con, anh khuyên em. Trong họ đạo thì đó là bổn phận của đầu họ đạo. Tân Luật quy định “Hình phạt”, thế nhưng trước khi phạt thì phải “phân giải”:
“Về đường đời bổn đạo có xích mích nhau, cũng phải đến cho người làm đầu trong họ phân giải.” (Đạo Pháp, Chương VII, Điều Thứ Hai Mươi Tám.)
Tân Luật buộc người trên phân giải kẻ dưới thì ngược lại cũng buộc kẻ dưới phải nhún nhường tuân theo sự phân giải của người trên. Phận người trên mà sái quấy thì phải biết phục thiện nghe theo lời nói phải lẽ của đàn em:
“Phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ làm lỗi, phải ăn năn chịu thiệt.” (Đạo pháp, Chương V, Điều Thứ Hai Mươi Hai.)
Để duy trì hòa khí, theo Tân Luật, kẻ thứ ba không được dửng dưng làm người bàng quan:
“Đừng thấy đồng đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải…” (Đạo Pháp, Chương V, Điều Thứ Hai Mươi Hai.)
Còn hơn thế nữa, Tân Luật buộc tín hữu như sau:
“Nhập đạo rồi thì phải quên những việc oán thù nhau khi trước; phải tránh việc ganh ghét, tranh đua và kiện cáo; phải nhẫn nhịn và hòa thuận với nhau. Rủi có điều chi xích mích, phải vui nghe người làm đầu trong họ phân giải.” (Thế Luật, Điều Thứ Hai.)
Trong số các tiền khai Cao Đài có hai vị chủ quận điển hình là Ngô Văn Chiêu (1878-1932) và Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951). Do tâm lý hiếu hòa, mỗi khi xử kiện trong quận, hai vị luôn tìm cách hòa giải các bên tranh chấp.
6. Chuộng nếp sống giản dị, cần kiệm (TLDT, tr. 75)
Tiết kiệm là đạo đức xã hội và cũng là hạnh đức người tu hành. Đối với phần đông tín hữu Cao Đài vốn còn nghèo khổ, dù ở thôn quê hay thị thành, tiết kiệm và sống giản dị là một hành vi đạo đức, và là một trong những bài học đầu tiên Đức Cao Đài Thượng Đế dạy môn đệ khi vừa mới mở Đạo.
Thực vậy, ngày 12-10-1926, Đức Cao Đài Thượng Đế dạy:
“Biết tại sao Thầy muốn cho các con mặc đồ bô vải chăng? Vì bô vải là tấm gương đạo đức. Các con đã rõ đạo thì phải biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian này. Như sự lãng phí, se sua ở đời này Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy.” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, 1964, tr. 47-48.)
Theo Đạo Sử Xây Bàn, quyển I (ronéo), của Đầu Sư Hương Hiếu (1887-1971) thuộc Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh, trong đàn cơ ngày 27-11-1926, Đức Cao Đài Thượng Đế dạy một môn đệ là ngài Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950) như sau:
“Thơ, con làm thánh tượng [Thiên Nhãn] vậy đặng. Con phải tính thế in cho nhiều một lần thì giá rẻ chút ít nghe.” (tr. 52)
Ngay sau đó không rõ ngài Nguyễn Ngọc Thơ bạch điều chi (vì bà Hương Hiếu không ghi lại), mà Đức Cao Đài Thượng Đế dạy tiếp:
“Đặng con. Thầy biết một điều là trong hàng em út các con đều là phần nghèo; một đồng nó đỡ một đồng, nghe con.” (tr. 52)
Chuẩn bị cất Tòa Thánh Tây Ninh, giáng cơ tại thánh thất Thiền Lâm ngày 28-02-1927, Đức Giáo Tông Vô Vi Lý Thái Bạch vẽ họa đồ thiết kế một kiến trúc hết sức to tát, cho tương xứng với tầm cỡ đạo Cao Đài trong tương lai. Trong một đàn cơ sau đó (bà Hương Hiếu không ghi ngày), Đức Cao Đài Thượng Đế dạy:
“Thầy chẳng đành. Thảng như tốn kém nhiều, các con coi theo họa đồ tính làm theo thước mộc. Nghe à.” (Thước mộc tương đương 0,425 mét.)
Dù thế, trong đàn cơ ngày 08-3-1927 tại thánh thất Thiền Lâm, ngài Nguyễn Ngọc Thơ vẫn xin xây dựng theo họa đồ của Đức Lý Giáo Tông, thì Đức Cao Đài Thượng Đế dạy: “Tốn kém nhiều lắm con ơi!” Sau đó Đức Lý Thái Bạch cho các tiền khai Cao Đài biết chính Đức Thượng Đế đã giảm bớt kích thước Tòa Thánh.
Sống tiết kiệm (cần kiệm) còn được quy định trong Tân Luật, tiêu biểu như sau:
[Chức sắc] Ăn mặc thường. Phải dùng toàn đồ vải trắng, hoặc màu theo phái mình, song phải tùy tiện chẳng nên xa xí.” (Đạo Pháp, Chương II, Điều Thứ Mười Lăm.)
 “Người bổn đạo ăn mặc phải cần kiệm, tùy phận tùy duơn [duyên], cũng nên dùng đồ vải bô và giảm bớt hàng lụa.” (Thế Luật, Điều Thứ Hai Mươi Mốt.)
Trong việc tống chung không nên xa xí, không nên để lâu ngày, không nên dùng đồ âm công có màu sắc lòe loẹt, chỉ dùng toàn đồ trắng, không nên đãi đằng rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh và mất dấu ai bi.” (Thế Luật, Điều Thứ Mười Sáu.)
*
Tâm lý người đạo Cao Đài là một phần của tâm lý người Việt Nam, trong đó chắc chắn có tác động tích cực và không tích cực. Những tính cách tâm lý ấy đều ảnh hưởng tới tâm thái hay não trạng (mentality) và phong cách hành đạo của người Cao Đài. Cần tìm hiểu chúng để giảm thiểu những trở ngại và đồng thời tối ưu hóa những thuận lợi sẵn có trong mọi nỗ lực hoằng hóa đạo Cao Đài. Tuy nhiên, tâm lý người đạo Cao Đài là một lãnh vực chưa được học giới chú ý nghiên cứu. Bài viết này vì thế xem như một bước chân dọ dẫm trên một cõi miền nguyên sơ.
Tháng 11-2004
Sửa chữa, 25-9-2017
HUỆ KHẢI
*
Ghi chú:
Để tìm hiểu thêm về đạo Cao Đài, có thể tham khảo các tập sách song ngữ Việt-Anh của Huệ Khải, liên kết ấn tống tại hai nhà xuất bản Tôn Giáo và Hồng Đức (Hà Nội) từ năm 2008 tới nay. Xem trang 79 ở cuối sách này. Ngoài ra, có thể truy cập các văn bản điện tử tại:
http://chungtayantong.blogspot.com
http://daidaovanuyen.blogspot.com
http://huekhai.blogspot.com
http://understandingcaodaism.blogspot.com


 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.