NGUỒN GỐC BÀI KINH
NGỌC
HOÀNGTHIÊN TÔN BỬU CÁO
Năm 1994 tôi ấn hành Tìm Hiểu Kinh Cúng Tứ Thời, một năm sau đó lại sửa chữa và tăng bổ
khá nhiều khi tái bản [Lê Anh Dũng 1995]. Về sau, hiền huynh Huệ Nhẫn (Cơ Quan
Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo) có công sưu tầm được hai bản kinh xưa, chữ Hán, bài Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo. Nhờ hai
văn bản này tôi có điều kiện xác thực để hiệu
đính lại ba từ Hán trong bản in
năm 1995 của tôi,([1]) giảng lại hai từ liên quan. Để góp phần khai thác văn bản, dưới đây tôi nêu
một số ý kiến, suy nghĩ liên quan tới hai bản chữ Hán bài kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo.
I. TÌM HIỂU BẢN IN ĐỜI QUANG TỰ (1907)
Đầu năm 1997 hiền huynh Huệ Nhẫn hoàn tất bản thảo Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa Bài Kinh Ngọc Hoàng Bửu
Cáo (50 trang, 14,5x20,5cm). Ngoài
ba trang bản chữ Hán bài Ngọc Hoàng Thiên
Tôn Bửu Cáo trích từ các trang 36-39 của quyển Ngọc Hoàng Cứu Kiếp Chân Kinh do hiền huynh Huệ Nhẫn sao chụp, đáng
chú ý là bản chụp lại bìa quyển Ngọc Hoàng
Cứu Kiếp Chân Kinh [Huệ Nhẫn 1997: 6-8].
Quyển Ngọc Hoàng Cứu Kiếp Chân Kinh
(chữ Hán) dày 80 trang, không kể bìa, in năm Quang Tự (1907) nhà Thanh (Trung
Quốc).
1. Trang bìa cho
thấy các chi tiết sau đây:
(1) Bên phải nhan đề in dòng nhỏ hơn, gồm mười chữ
Hán: Quang Tự tam thập tam niên hạ nguyệt
trùng tuyên,([2])
nghĩa là năm Quang Tự thứ ba mươi ba [1907],([3]) tháng hạ,([4]) khắc lại. Nhưng trang 1 quyển Ngọc Hoàng Cứu Kiếp Chân Kinh ghi: Bảo huấn ư Quang Tự nhị thập tứ niên tái
khắc.([5])
Lưu ý: trùng
tuyên và tái khắc đều có nghĩa là
khắc ván để làm lại bản in mới; nhưng trùng
là làm lại lần nữa; in mới một ấn
bản là trùng san (khan);([6]) còn
tái là lần thứ nhì; bản in lần
thứ nhì gọi là tái bản.([7])
Vậy, tái khắc là khắc lần thứ nhì. Như thế, bản Ngọc
Hoàng Cứu Kiếp Chân Kinh in năm 1907 đã được khắc lại dựa theo bản khắc lần
thứ nhì năm Quang Tự thứ hai mươi bốn (1897).
(2) Giữa trang giấy, nhan đề in thành một dòng xuôi
xuống, gồm sáu chữ Hán: Ngọc Hoàng Cứu
Kiếp Chân Kinh (chân kinh giải cứu tai họa của Ngọc Hoàng).
(3) Bên trái nhan đề in dòng nhỏ thứ hai, gồm tám chữ
Hán: La Phù Sơn Triều Nguyên Động tàng
bản.([8])
Ngọc Hoàng Cứu Kiếp Chân Kinh (bìa)
Ngọc
Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo (1)
Ngọc
Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo (2)
Ngọc Hoàng Thiên
Tôn Bửu Cáo (3)
Có thể hiểu như sau:
- Ngày xưa, kinh
sách được in bằng cách khắc chữ trên ván, tấm ván khắc ấy gọi là bản.([9]) Các bản này được lưu giữ để dùng cho những
lần in sau, gọi là tàng bản. Việc lưu
giữ ấy cũng gọi là tàng bản; từ đó, tàng bản cũng có nghĩa là xuất bản, in sách,([10]) và
người xuất bản kinh này là các đạo sĩ ở động Triều Nguyên, trên núi La Phù Sơn.
- Động có nhiều nghĩa: hang động; thông
suốt; thâm viễn; vẻ mặt cung kính... Theo đạo Lão, động hay động phủ, động thiên
là nơi tiên ở [Từ Hải 1948: 788].
- Theo đạo Lão, nguyên cũng như Đạo; triều nguyên cũng như quy nguyên phản bản, trở về với Đạo, chầu
Trời, triều kính Thượng Đế.
- La Phù Sơn: Núi La Phù ở phía đông huyện
Tăng Thành, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tương truyền, đạo sĩ Cát Hồng tu tiên
đắc đạo ở núi này [Từ Hải 1948: 1066].
2. Về ba trang kinh văn
Bản in đời Quang Tự (1907) cho thấy sáu chữ nhan đề Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo đứng riêng
hẳn một dòng (dòng 5, tr. 35 bản Hán), nét chữ khắc hơi đậm hơn, phân biệt với
phần kinh văn tiếp theo đó (mười bảy dòng).
Xem xét cách trình bày bản khắc in, lại thấy rằng ba
chữ Đại [La] (dòng 2, tr. 36 bản Hán), Đại [Thánh] (d. 5, tr. 38) trồi
lên một hàng ngang; riêng Ngọc [Hoàng] (d. 5, tr. 35) và Huỳnh [Kim Khuyết] (d.1., tr. 39) trồi
lên hai hàng ngang.
Đây là phép đài
抬 (viết trồi chữ
lên) của người xưa, mỗi khi gặp những tiếng phải tỏ lòng tôn kính: đài hai hàng là bày tỏ lòng tôn kính
nhiều hơn trường hợp đài một hàng.([11])
Trong bản kinh đang khảo sát, Ngọc Hoàng và
Huỳnh Kim Khuyết đài lên hai hàng,
hai chữ Đại La và Đại Thánh chỉ đài lên một hàng.
Ba trang kinh văn bài Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo này kết thúc với mười chín chữ (d.
1-2, tr. 39): Huỳnh Kim Kim Khuyết, Bạch Ngọc
Ngọc Kinh, Huyền Khung Cao Thượng Đế, Ngọc Hoàng Hựu Tội Thiên Tôn.([12]) Như
vậy, so với bài Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo trong Kinh Cúng Tứ Thời của đạo Cao Đài, hai phần kết không hoàn toàn giống nhau.
Tuy bản in đời Quang Tự (1907) này không cho biết vị
nào đã tả kinh. Nhưng có thể đoán biết rằng, giống như nhiều kinh văn khác của
đạo Lão đời Thanh, bài Ngọc Hoàng Thiên Tôn
Bửu Cáo này đã được tiếp nhận qua phương tiện cơ bút; cách cầu cơ này cũng
truyền sang Việt Nam từ xưa, như các thiện
đàn ở miền Trung, các đàn cầu tiên ở Nam Kỳ Lục Tỉnh, trước khi có cơ bút
của đạo Cao Đài.([13])
Văn Xương
Đế Quân Cứu Kiếp Bảo Sanh Kinh
Ngọc Hoàng
Thiên Tôn Bửu Cáo (1)
Ngọc Hoàng
Thiên Tôn Bửu Cáo (2)
II. TÌM HIỂU BẢN IN ĐỜI KHẢI ĐỊNH (1923)
Tháng 9-1997, khi soạn thêm bốn trang Phần Bổ Sung Cho Tập Nguồn Gốc Và Ý Nghĩa
Bài Kinh Ngọc Hoàng Bửu Cáo, hiền huynh Huệ Nhẫn cho biết đã sưu tầm thêm
được một bản chữ Hán khác (chụp lại 4 trang) mà kinh văn hoàn toàn giống với bài Ngọc
Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo trong Kinh
Cúng Tứ Thời của đạo Cao Đài. Đây chính là bản in đời Khải Định (1923).([14])
1. Trang bìa có
các chi tiết như sau:
(1) Hàng ngang nằm trên cùng: Linh Quang Tự.
Vậy, đây là bản in của môn đệ Linh Quang Tự thuộc
tông Phổ Tế, chi Minh Sư. Trước khi Thái Lão Sư Trần Đạo Quang (1870-1946) quy
hiệp đạo Cao Đài, tiền bối từng có trách nhiệm cai quản Linh Quang Tự, ở xã
Hanh Thông Tây, quận Gò Vắp, tỉnh Gia Định. Khoảng vài mươi năm sau, chùa đã
dời về huyện Hốc Môn.([15])
(2) Giữa trang giấy, nhan đề in thành một dòng xuôi
xuống: Văn Xương Đế Quân Cứu Kiếp Bảo
Sanh Kinh (kinh giữ gìn mạng sống, giải cứu tai họa của Đức Văn Xương Đế
Quân).([16])
(3) Bên phải nhan đề in dòng nhỏ hơn: Đại Nam Khải Định, Quý Hợi niên, trọng
xuân, cát nhựt (ngày lành, giữa mùa xuân [tháng hai âm lịch], năm Quý Hợi
[1923], đời vua Khải Định, nước Đại Nam).([17])
(4) Bên trái nhan đề in dòng nhỏ thứ hai: Tân An Lâm Thị Chợ ([18]) trùng san (khan) kỳ bệnh dũ (Lâm Thị
Chợ ở Tân An tái bản để cầu khỏi bệnh).
Theo [Huệ Nhẫn 1997: 7], Lâm Thị Chợ “là chị thứ bảy của ông Lâm Xương Quang (ông
Lão Tám Lâm Đạo Nguơn)... bà bị bệnh nặng, ấn tống kinh này cầu giải bệnh.”
Nói thêm về tiền bối Lâm Xương Quang, người nổi tiếng
trong giới tu tiên ở Nam Kỳ qua các bản dịch Thất Chơn Nhơn Quả, Ngọc Lộ Kim Bàn, Hồi Dương Nhơn Quả, Ngọc Lịch Minh
Kinh...
(5) Ba dòng dưới cùng, ở giữa: Thanh Thủy; Quan Âm Đường;
loát san.([19])
Giải thích:
- Thanh Thủy là làng Thanh Thủy, thuộc
tổng Thạnh Mục Hạ, quận Bình Phước, tỉnh Tân An.
- Quan Âm Đường ở làng Thanh Thủy, là chùa
thuộc tông Đức Tế, chi Minh Sư.
- Loát là bàn chải, dùng bàn chải; san là khắc, in; loát san (khan) là in
bằng cách dùng bàn chải xoa mực đều lên bản khắc gỗ.
2. Về hai trang kinh văn
Bản in đời Khải Định (1923), cho thấy dưới nhan đề Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo là hai
dòng: Quang Tự Tân Mão cửu nguyệt sóc,
Quan Đế thỉnh Phù Hựu Đế Quân giáng tác thử
cáo thập tụng ([20]) dĩ kính Thiên Đế.([21])
Hai dòng này cho biết ngày mùng 1 tháng 9 Tân Mão
(1891), niên hiệu Quang Tự, Đức Quan Đế (Quan Thánh Đế Quân) đã thỉnh Đức Phù
Hựu Đế Quân giáng cơ tả bài cáo này [để] tụng nhiều lần [tỏ lòng] kính ngưỡng
Thiên Đế [Trời].
Việc tìm ra bản kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo do tín đồ Minh Sư ở Tân An ấn tống năm
1923 cũng góp phần cho thấy có mối quan hệ giữa tiền bối Ngô Văn Chiêu
(1878-1932) và đạo Minh Sư.
Ngô tiền bối từng sống, làm việc và cầu tiên ở Tân An
(1899-1919); sau này ở Phú Quốc ngài có kết giao với Thái Lão Sư Tùng Ngạc
trong bước đầu học thiền với Đức Cao Đài Tiên Ông. Phải chăng Ngô tiền bối đã
tiếp nhận bài kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn
Bửu Cáo từ đạo Minh Sư? và phải chăng cũng vì thế mà môn sanh Chiếu Minh tu
theo Ngô tiền bối cho tới nay vẫn đọc là cổ
ngưỡng kim ngưỡng giống y như bản kinh chữ Hán của Minh Sư.
Nếu như thế, phải chăng Ngô tiền bối đã truyền lại
bài kinh này cho các tiền bối khai đạo trước khi lập thành Hội Thánh Cao Đài
Tây Ninh [Lê Anh Dũng 1996: 57-69]? Nhưng rồi vì sao Cao Đài Tây Ninh lại đổi
thứ tự thành kim ngưỡng cổ ngưỡng là
một việc chưa tìm được sử liệu để hiểu lý do.
Bản in đời Khải Định (1923) hoàn toàn giống với bản kinh trong đạo Cao Đài hiện nay; nhưng vì sao
lại quá khác biệt trong phần kết giữa
bản in 1923 này và bản in đời Quang Tự (1907)? Có thể tạm giải thích như sau:
Kinh cúng của đạo Lão khi lưu hành trong dân gian thường có dị bản. Sau đây là vài trường hợp dị bản
khác nữa có thể tìm thấy trên Internet.
III. MỘT VÀI DỊ BẢN TRÊN INTERNET
Trên Internet có thể tìm thấy một số dị bản bài kinh
xưng tán Đức Ngọc Hoàng Thiên Tôn (Thượng Đế). Các bài này đều viết Cổ ngưỡng kim ngưỡng chứ không đảo lại Kim ngưỡng cổ ngưỡng như Cao Đài Tây
Ninh. Tạm kể như sau:
1. Bản A
Tại địa chỉ http://tw.myblog.yahoo.com/e-books/article?mid =1023&prev=1024&l=f&fid=6 ở Đài Loan có
bài Ngọc Hoàng Thượng Đế Tiêu Kiếp Chân
Kinh.([22]) Trừ
chỗ viết
Cổ ngưỡng kim ngưỡng, bài
này giống với bài kinh tụng trong đạo Cao Đài cho tới câu Hồng oai hồng từ. Vô cực vô thượng. Đại thánh đại
nguyện. Sau đó, kinh kết thúc như sau: Đại
từ đại bi. Huỳnh Kim Kim
Khuyết. Bạch Ngọc Ngọc Kinh. Huyền Khung Cao Thượng
Đế. Ngọc Hoàng Tích Phước Xá Tội Đại Thiên Tôn.([23]) Những chỗ khác
với bài kinh tụng trong đạo Cao Đài đã được gạch dưới. Bài trên mạng này cho
biết tụng xong kinh thì lạy mười hai lạy (Thập
nhị khấu đầu).
2. Bản B
Tại địa chỉ http://www.jnk.org.tw/w02-20.htm
cũng ở Đài Loan có bài Ngọc Hoàng
Chân Kinh Tụng Bản. Bài
này hoàn toàn giống với bản A trên đây, chỉ trừ một chữ; viết diệu diệu là
緲渺 thay vì 渺渺. Chữ 緲 còn đọc là miều, diểu.
3. Bản C
Tại địa chỉ http://www.wretch.cc/blog/delete0471/9504691
có bài Ngọc Hoàng Chân
Kinh Tụng Bản giống như bản A, nhưng không viết Đại từ đại bi như bản A mà viết Đại tạo đại bi như bài kinh tụng
trong đạo Cao Đài.
*
Dẫn thêm vài trường hợp như trên để thấy rằng các
kinh tụng của đạo Lão thường có không ít dị bản. Đối với bài Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo thì các chữ
sai khác không nhiều. Tuy nhiên, khi tìm hiểu bài kinh cúng tứ thời xưng tán
Nho Giáo trong đạo Cao Đài và đối chiếu với bản gốc chữ Hán sẽ thấy hai điểm
đáng lưu ý như sau:
- Các bản chữ Hán của Trung Quốc ([25]) sai khác với
nhau khá nhiều.
- Bản kinh của Cao Đài lại càng khác hơn bản gốc chữ
Hán của Trung Quốc, tạo thành một dị bản tách rời ý nghĩa bản gốc và buộc phải
đọc, hiểu theo cách của người đạo Cao Đài. Đây quả là điều khá “gút mắc” và sẽ
được trình bày trong một khảo luận riêng.
Phú Nhuận, 25-11-1997
Bổ túc 07-8-2009
HUỆ
KHẢI