Thứ Năm, 9 tháng 6, 2022

VÀI KINH NGHIỆM ĐỌC THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG (phần 2)

 


VÀI KINH NGHIỆM ĐỌC

THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG (phần 2)

HUỆ KHẢI

 

III. Điển cố

Điển cố là chuyện tích xưa hoặc câu nói trích trong sách vở. Vài thí dụ trích trong Thánh Truyền Trung Hưng:

1. Đạt nhân quân tử

“Những người đt nhân quân tử lúc nào cũng trông xa nghĩ rộng mà đặt vấn đề cả cho mình và cho mọi người đồng thi hành trên phương diện đó.” ([1])

Đạt nhân quân tử 達人君子 nghĩa là bậc quân tử biết mưu cầu sự thành đạt cho người khác cũng như mình thành đạt.

Nhân là con người, không phải là đức nhân , nhân ái 仁愛. Đạt là thành đạt, thành tựu, thành công. Đạt nhân là giúp cho người khác thành công cũng như mình thành công.

Đạt nhân là lời Đức Khổng Tử dạy ông Tử Cống, được chép trong Luận Ngữ (6:30): (K)ỷ dục lập nhi lập nhân; kỷ dục đạt nhi đạt nhân. 己欲立 而立人, 己欲達而達人. (Muốn tạo lập cho mình thì cũng tạo lập cho người khác; muốn mình thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt.)

2. Khổng Tử bị vây khốn ở Trần, Thái.

“Dầu có như Khổng Phu Tử by khốn ở Trần, Thái mà giữ được thanh tịnh tự nhiên; rồi muôn việc cũng qua, mà tỏ được chí mình hồn nhiên vô vọng.” ([2])

Khổng Phu Tử bị vây khốn ở Trần, Thái: Tích này gọi là Trần Thái tuyệt lương 陳蔡絕糧 (Hết sạch lương thực tại biên giới nước Trần và nước Thái), cũng gọi là tại Trần tuyệt lương 陳絕糧.

Luận Ngữ (15:2) chép: Tại Trần tuyệt lương, tòng giả bệnh, mạc năng hưng. 在陳絕糧, 從者病, 莫能興. (Tại nước Trần, thầy trò cạn hết lương thực, đệ tử đi theo ngã bệnh, không ai ngồi dậy nổi.)

Tiểu thuyết Đông Chu Liệt Quốc (Hồi 79) của Phùng Mộng Long chép: Khổng Tử tuyệt lương tam nhật, nhi huyền ca bất xuyết. 孔子絕糧三日, 而絃歌不輟. (Khổng Tử bị tuyệt lương ba ngày, mà vẫn không ngừng gảy đàn đọc sách.)

Theo Phùng Mộng Long, Đức Khổng ghét nước Vệ trái lễ nên đi sang nước Trần. Khi Phu Tử đến biên giới hai nước Trần và Thái thì Sở Chiêu Vương phái người rước về nước Sở. Các quan đại phu hai nước Trần, Thái sợ nước Sở dùng Đức Khổng thì nguy cho nước họ, bèn điều động quân binh bao vây Phu Tử ở biên giới.

3. Linh Sơn

Linh Sơn cùng bạn đồng tâm

Nên hư đóng cửa âm thầm nhủ khuyên.([3])

Linh Sơn nói đủ là Linh Sơn cốt nhc 靈山骨肉. Linh Sơn là núi Linh Thứu 靈鷲山 (thứu: chim kên kên). Trên núi này Đức Phật Thích Ca đã thuyết kinh Diệu Pháp Liên Hoa (kinh Pháp Hoa). Những ai có mặt nghe pháp lúc ấy là những người dự hội Linh Sơn (Linh Sơn hội thướng nhân 靈山會 ).

Người tu thường gọi tình bạn đạo thân thiết là tình Linh Sơn cốt nhục. Cốt nhục là xương thịt, nghĩa bóng là tình máu mủ cùng cha cùng mẹ rất thân thiết.

Khi nói tình Linh Sơn cốt nhục, hoặc nói tắt là tình Linh Sơn, thì ngụ ý rằng chúng ta nào phải mới gặp nhau, mới biết nhau kiếp này; mà xa xưa trong nhiều kiếp, chúng ta đã cùng dự hội Linh Sơn, cùng nghe giảng kinh Pháp Hoa.

Khi nhắc nhau tình Linh Sơn còn ngụ ý hãy giữ cho lòng chúng ta gần gũi trong đạo mạch thiêng liêng, cùng thương nhau, hiểu nhau, cảm thông nhau, bảo bọc nhau, không để lòng phàm tánh tục chia cách.

4. Lý bạc băng, lâm thâm uyên

“Hối nghĩa là sao? Là nguyện từ nay bao nhiêu những lỗi cũ không còn vấp phạm nữa, phải luôn luôn tư thiết ([4]) với tội lỗi của mình. Như lâm thâm uyên, như bc băng, phải lo sợ cái ngày chết nó kề một bên.” ([5])

Luận Ng (8:3): Thi vân: “Chiến chiến căng căng như lâm thâm uyên, như lý bạc băng.” 詩云: “戰戰兢兢, 如臨深淵, 如履 薄冰.” (Kinh Thi nói: “Phải nơm nớp run sợ, như đang tới mép vc sâu, như đang bước trên lớp băng mỏng.”)

Chiến là run rẩy vì s hãi. Căng (hay căng căng) là kiêng dè, cẩn thn. Chiến căng (chiến chiến căng căng) là sợ run lập cp.

5. Ngọc bích Biện Hòa

Thời này cả một sự gay cấn, ngọc đá chưa phân. Nếu không phải con mắt nhà nghề thì dầu cho nó là của quý Bin Hòa cũng khó mong khỏi tội khi người.” ([6])

Cuối đời Sở Lệ Vương, có người dân là Biện Hòa 卞和 nhặt được ở Kinh Sơn 荆山 một hòn đá và biết trong đó chứa ngọc, bèn đem dâng Lệ Vương. Thợ ngọc triều đình bảo chỉ là hòn đá tầm thường. Lệ Vương sai chặt chân trái Biện Hòa để trừng trị tội khi quân.

Sở Vũ Vương lên nối ngôi, Biện Hòa tuy què vẫn vào triều dâng ngọc lần nữa. Thợ ngọc trong triều cũng bảo là đá, Vũ Vương ra lệnh chặt chân phải Biện Hòa.

Sở Văn Vương kế vị, Biện Hòa cụt hai chân, không vào triều dâng ngọc được, ôm hòn đá than khóc ở chân núi Kinh Sơn ba ngày ba đêm. Có người hỏi: “Ông vẫn cứ mong vọng, luyến tiếc lộc vua ban thưởng ư?” Biện Hòa nói: “Tôi nào mong cầu được thưởng. Chỉ hận rằng ngọc quý mà họ cứ bảo là đá. Thật giả không minh bạch, cho nên tôi đau xót lắm!”

Sở Văn Vương nghe chuyện, sai đưa Biện Hòa cùng viên đá vào triều. Thợ ngọc xẻ đá ra thì được viên ngọc quý, chế tác thành ngọc bích, gọi là ngọc bích Biện Hòa.

6. Tề nhứt biến; Lỗ nhứt biến

“Thời thế xoay đổi thế nào? Tề nhứt biến; Lỗ nhứt biến. Tề tam biến chưa thành, Lỗ nhứt biến đạt đạo. (...) Các hiền đã cảm thông sự biến của Tề và Lỗ chăng?” ([7])

Biến có nghĩa là cải cách chính trị. Khi Vương An Thạch 王安石 (1021-1086) làm tể tướng (cũng như thủ tướng ngày nay), ông tiến hành cải cách chính trị nhà Tống thì đường lối cải cách đó được gọi là biến pháp 變法.

T nht biến; L nht biến là nói tắt một câu của Đức Khổng Tử, chép trong Luận Ngữ (6:24). Nguyên văn: T nht biến, chí ư Lỗ; L nht biến, chí ư đạo. 齊一變, 至於魯; 魯一變, 至於道. (Nước T cải cách mt bc thì đạt tới trình độ nước L; nước L cải cách mt bc thì đạt được trình độ đất nước theo vương đạo 王道).

T Hoàn Công 齊桓公 (715-643 TCN) cai trị nước Tề theo bá đạo 霸道 nên Tề sớm cường thịnh mà phương diện giáo hóa kém suy. Nước L tuy yếu hơn Tề, nhưng còn trọng l giáo và tín nghĩa; nếu cải cách mt bc thì Lỗ s tiến rất xa và nhanh hơn Tề. Do đó, Đức Trần Tổng Lý nói thêm: Tề tam biến chưa thành, Lỗ nhứt biến đạt đạo. 齊三變未成; 魯一變 . (Lỗ một lần cải cách thì đạt tới nước theo vương đạo; Tề ba lần cải cách cũng chưa thành nước theo vương đạo.)

7. Tuyển hiền cử năng

Cửa tâm pháp mở truyền bí pháp

Pháp huyền vi quy nạp cơ duyên

Trung Tông khẩu thọ tâm truyền

Phân phàm chọn thánh, tuyển hiền cử năng.([8])

Tuyển hin c năng 選賢舉能: Chọn lựa và cất nhắc người hiền đức, tài giỏi.

Thành ngữ này lấy t sách L禮記 (thiên L Vn 禮運): Đại Đạo chi hành dã, thiên h vi công, tuyn hin d([9]) năng, ging tín tu mc.” 大道之行也, 天下為公, 選賢與能, 講信修 . (Thực hành Đại Đạo là công bng trong thiên hạ, chn người hin đức và cất nhắc người tài năng, nói năng tín thành, tu thân hòa mc.)

8. Văn chất bân bân

Tiếp kỳ giáo hóa độ quần lê

Văn chất bân bân, trọn mọi bề.([10])

Luận Ngữ (6:18) chép lời Đức Khổng Tử: Chất thắng văn tắc dã; văn thắng chất tắc sử; văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử. 勝文則野; 文勝質則史; 文質彬彬; 然後君子. (Chất phác trội hơn văn nhã là kẻ quê mùa; văn nhã trội hơn chất phác là kẻ chép sử; văn nhã và chất phác ngang nhau là người quân tử.)

Vậy, văn chất bân bân 文質彬彬 là văn nhã và chất phác đều nhau.

Ở bậc hướng đạo, “chất là nội lực bên trong, tích lũy do nhiều năm dày công học hỏi giáo lý, tham thiền tịnh luyện, nên đủ khả năng gánh vác việc đạo; “văn” là kết quả nhiều năm dày công trau dồi đức độ, thể hiện ra phong thái, dáng vẻ bên ngoài khiến cho người khác thoạt nhìn thấy thì tự dưng sinh lòng tôn kính, hễ được gần gũi bậc hướng đạo thì thương, tự cho là diễm phúc, mà nếu phải cách xa thì nhung nhớ, tha thiết mong muốn được dịp gặp lại.

IV. Kinh Thánh Tân Ước (Phúc Âm)

Nếu muốn giới thiệu cho người phương Tây biết Đạo Thầy, có lẽ người đạo Cao Đài nên học Phúc Âm để tìm những chỗ tương đồng giữa giáo lý Kỳ Ba với lời Chúa mà phần lớn người phương Tây đã thấm nhuần hơn hai ngàn năm qua. Xin thử nêu một ví dụ về chỗ tương đồng như sau:

– Nhị Kỳ Phổ Độ, Tân Ước (Mát-thêu 4:18-21) chép:

Chúa Giê-su đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn (cũng gọi là Phê-rô) và người anh là ông An-rê đang quăng chài xuống biển, vì hai ông làm nghề đánh cá. Chúa bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.”

– Tam Kỳ Phổ Độ, Thứ Bảy 01-01-1927, Đức Cao Đài Thượng Đế dạy nữ tiền khai Hương Hiếu (1887-1971):

Các con một đầu, Thầy một đầu, nắm cht tay lưới vớt cả chúng sanh.

Thánh Truyền Trung Hưng có khá nhiều thuật ngữ Đạo Chúa.([11]) Nếu đã học Phúc Âm, các vị ngành Phổ Tế có thêm thuận lợi để thuyết giảng thánh giáo. Chẳng hạn:

1. Còi, gậy, và chiên

Còi gậy có Thầy cho điều độ

Bước chông gai hoạn lộ thiếu người.([12])

Trong hàng ngũ hướng đạo các cấp chưa được huấn luyện phương pháp chăn giữ đàn chiên.([13])

Bậc hướng đạo dẫn dắt tín đồ được Đạo Chúa gọi là mục tử chăn giữ đàn chiên. Mục tử dùng còi để gọi chiên (cừu) và dùng gậy để lùa đàn chiên, đánh đuổi lũ sói bảo vệ chiên.

2. Lý trí

Trong các mối tương quan, điều đáng lo là sống bằng hư danh và bn bè với khôn ngoan lý trí.([14])

Thánh giáo cảnh tỉnh rằng bạn bè với khôn ngoan lý trí là điều đáng lo. Lời này thoạt nghe có vẻ thiếu hợp lý, trái với lý lẽ thông thường. Tuy nhiên, khi dạy môn sanh đừng kết giao “bạn bè với khôn ngoan lý trí” tức là Đức Ngô cảnh báo chúng ta đừng tin tưởng vào óc khôn ngoan theo lý trí thế gian vì chúng ta dễ bị phàm ý (hằng bị dục vọng chi phối) dẫn dắt đi lạc đường.

Nhờ đã học Phúc Âm, và biết trích dẫn Thư 1 Cô-rin-tô (3:18-19), thì các vị ngành Phổ Tế có thể làm sáng tỏ lời dạy của Đức Ngô bằng cách trưng ra lời Thánh tông đồ Phao-lô cảnh báo các Ki-tô hữu:

Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa.”

Thế nên, các vị ngành Phổ Tế cực lắm; muốn hiểu rõ Thánh Truyền Trung Hưng thì học thêm Tam Giáo vẫn thiếu, do đó cần học cho đủ Tứ Giáo, tức là học thêm Tân Ước (Phúc Âm) của Đạo Chúa.

V. Tách đôi từ

Đây là một trong các biện pháp tu từ, bằng cách tách đôi một từ ghép bằng một từ khác (các + chi phái → các chi các phái); hoặc tách đôi một từ láy (phải + đắn đo → phải đắn phải đo). Nếu thêm dấu phẩy (các chi, các phái / phải đắn, phải đo) thì sai.

Nguyễn Tài Cẩn trong Ngữ Pháp Tiếng Việt (Tiếng – Từ Ghép – Đoản Ngữ)”, in lần thứ ba, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 1996, tr. 18-20, gọi là “hiện tượng tách đôi từ”.

Trong bài “Vài Biện Pháp Tu Từ Trong Thánh Giáo Cao Đài”,([15]) tôi gọi là “biện pháp tách từ”, là “cài răng lược”, và cung cấp nhiều thí dụ minh họa hơn dưới đây.

Tách đôi từ ghép có nhiều trong Thánh Truyền Trung Hưng. Sau đây là vài thí dụ:

1. Giờ hiệp lại để toan để tính

Giờ phân ra ban lịnh rao truyền

Một nhà quyền pháp linh thiêng

Chờ khi Tứ Giáo quy nguyên mới lành.([16])

Lưu ý: để + toan tínhđể toan để tính. Nếu thêm dấu phẩy (để toan, để tính) thì sai.

2. Chư chức sắc quên thân vì Đạo

Xa gần đều hoài bão tư duy

Đừng còn sớm th chiều phi

Làm người hướng đạo gắn ghi trọn tình.([17])

Lưu ý: sớm chiều + thị phisớm thị chiều phi. Nếu thêm dấu phẩy (sớm thị, chiều phi) thì sai.

3. BẢO nhau thành thật mến yêu nhau

THỌ pháp rồi lo gắng luyện trau

THÁNH vức có ngày chung một cõi

NƯƠNG Thầy nương bạn trước hiền sau.([18])

Lưu ý: bạn hiền + trước saubạn trước hiền sau. Nếu thêm dấu phẩy (bạn trước, hiền sau) thì sai và vô nghĩa.

Trong câu bốn dẫn trên, bạn trước hiền sau có nghĩa là bạn hiền (bạn đồng tu) ở chung quanh.

4. Thương cơ đạo chia mười xẻ bảy

Mối chơn truyền bẻ gãy làm đôi ...

Thầy thấy con trăm phương ngàn kế

Lo lợi danh mà phế cảnh nhàn ... ([19])

Lưu ý: chia xẻ + mười + bảy → chia mười xẻ bảy.

trăm + ngàn + phương kếtrăm phương ngàn kế.

5. “Tệ muội thấy hữu hạnh nhứt là chị em có đủ các tiện nghi giải thoát, thế mà chị em còn trông đó ngó đây.” ([20])

Lưu ý: trông ngó + đó đâytrông đó ngó đây. Nếu thêm dấu phẩy (trông đó, ngó đây) thì sai.

6. “Bởi ham muốn mà tạo cho cảnh đời nay chìm mai nổi, kẻ khóc người cười.” ([21])

Lưu ý: nay mai + chìm nổi nay chìm mai nổi.

kẻ + người + khóc cười kẻ khóc người cười.

7. “Trong khi khảo thí, chị em còn vui đây vui đó, đặt nhẹ lòng tu, chưa thấy cái khổ tròng đến nay mai, mà cứ vọng ước việc đâu đâu ngoài phần giải thoát.” ([22])

Lưu ý: vui + đây đóvui đây vui đó. Nếu thêm dấu phẩy (vui đây, vui đó) thì sai.

VI. Lược bớt chữ

1. Lược bớt chữ theo luật thơ

– Mưa pháp mưa lành xuống thế gian

Xuống cho bốn biển được an toàn

Toàn người hướng đạo thân bồ tát

Thì chánh giáo ngày được mở mang.([23])

Thơ thất ngôn, mỗi câu chỉ có bảy chữ; do đó câu bốn phải lược bớt chữ. Ở đây, ngày có nghĩa là càng ngày càng.

– Con làm sao sử đời ghi chép

Con làm sao quyền pháp nhiệm mầu

Đạo mầu rải khắp đâu đâu

Nơi này rồi sẽ năm châu sau này.([24])

Thơ song thất lục bát, câu bốn chỉ có tám chữ, nên phải lược bớt chữ. Câu này ý nói: Nơi này (Việt Nam) về sau này sẽ là chỗ năm châu tìm đến học đạo Cao Đài.

– Các đệ xuyên qua mấy cõi lòng

Để coi mầu nhiệm đấng Thiên Công

Úp nghiêng lật ngửa đời trong nháy

Bước đạo dò nương mỗi nhắc phòng.([25])

Thơ thất ngôn, mỗi câu chỉ có bảy chữ. Câu ba nói đủ là: trong nháy mắt. Câu bốn nói đủ là: mỗi lúc mỗi nhắc nhở hãy đề phòng.

2. Lược bớt chữ theo luật thơ và đảo ngữ

– Đạo mầu quý báu hơn vàng                              

Người đời mờ ám khó toan kiếm tìm

Xem qua từ cổ chí kim

Mấy người đắc ngộ không kiềm chí tâm.([26])

Thơ lục bát, câu bốn có tám chữ, do đó phải lược bớt chữ. Ở đây lại còn đảo ngữ. Câu này ý nói: Không kiềm tâm kiềm chí thì chẳng có ai đắc ngộ.

– TRƯỜNG đường biết sức ngựa

XUÂN ý suy bữa bữa

PHẬT nhật được tăng huy

ĐA bàn kim đã hứa.([27])

Thơ ngũ ngôn tứ tuyệt mỗi câu chỉ có năm chữ; do đó, câu bốn phải lược bớt chữ; người đọc phải đoán và thêm chữ cho dễ hiểu.

Bài thơ này gieo vần ưa (ngựa, bữa, hứa). Chữ hứa cuối câu bốn nên hiểu là hẹn hứa, và hiểu thoát ý là ấn định sẵn.

Địa bàn 地盤la bàn 羅盤 (compass), kim chỉ nam (chỉ nam châm 指南針). Địa bàn kim là đảo ngữ của kim địa bàn; kim này đã định sẵn phương hướng (vì nó làm bằng nam châm, luôn luôn xoay theo hướng bắc-nam).

Vậy, Địa bàn kim đã hứa có nghĩa bóng là Đức Phật Địa nhắc nhở các bậc hướng đạo rằng đường đi nước bước của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài đã được Đức Chí Tôn vạch sẵn (ấn định sẵn); các bậc hướng đạo miền Trung hãy cứ noi theo đó tu học hành sự cho đúng.

VII. Biến âm

1. Biến âm để ăn vần theo luật thơ lục bát.

Sống còn trong kiếp vô thường

Làm sao thân phận an bường, tươi vui.([28])

An bườngan bình, bình an 平安. Biến âm bình thành bường để vần với thường cuối câu lục.

2. Biến âm cho phù hợp với thơ quán thủ.

– TỪ bi lân mẫn mãi không phiền

HÀNG (hoằng) pháp độ người cũng chí chuyên

BỒ bặc cho nhau chung sức lại

TÁT (tác) thành cho Đạo ở chư hiền.([29])

Vé thơ (khổ thơ) quán thủ là TỪ HÀNG BỒ TÁT. Câu bốn nên ghi chú bên cạnh là tác để đúng chánh tả hai chữ tác thành 作成 là giúp cho (Đạo) thành công.

Câu hai lẽ ra là hoằng pháp 弘法, tức là hoằng dương chánh pháp 弘揚正法, làm cho chánh pháp phát triển; nhưng phải biến âm hoằng thành hàng cho đúng với hồng danh Đức Bồ Tát Từ Hàng (cũng là Đức Quan Âm).

– PHỔ truyền đạo pháp cứu Lần Ba

ĐÀ (đã) đến ngày giờ mở cửa ra

BỒ hạnh trọn trao cơ thoát tục

TÁT (tác) thành Thánh Hội mở Long Hoa.([30])

Vé thơ quán thủ là PHỔ ĐÀ BỒ TÁT. Câu hai nên ghi chú bên cạnh là đã. Câu bốn nên ghi chú bên cạnh là tác để đúng chánh tả hai chữ tác thành 作成.


NGỌC quý Thầy trao chớ hững hờ

HOÀN(G) toàn pháp đạo tạo huyền cơ

THƯỢNG căn mới biết lời u ẩn

ĐẾ mạng mau mau bước kịp giờ.([31])

Vé thơ quán thủ là NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ. Câu hai nên ghi chú bên cạnh là hoàn để đúng chánh tả hai chữ hoàn toàn 完全.

VIII. Đảo ngữ

Tạm nêu vài thí dụ trích trong Thánh Truyền Trung Hưng.

1. An khương → Khương an

KHƯƠNG an cũng đợi một thời qua

THƯỢNG đức đương mưu một chữ hòa

TỬ sĩ quyết tu công quả vẹn

NHA đường pháp đạo được trao qua.([32])

2. Nhiêu khê → Khê nhiêu

Đạo gặp lúc bộn bề công việc

Chỉnh cơ quan quyết liệt cũng nhiều

Hành trình gặp bước khê nhiêu

Pháp môn chưa đủ dắt dìu nhơn sanh.([33])

Nhiêu khê (là phức tạp rắc rối, khó làm, khó thực hiện) đảo ngữ thành khê nhiêu cho ăn vần chữ nhiều cuối câu trên.

3. Về đâu → Đâu về

Tay Tạo Hóa diệu huyền sắp đặt

Cõi dinh hoàn không sắc tương quan

Đêm thu gác áng mây vàng

Trần trung nhẹ gót cơ loan bút đề.

Nhân thế hỡi! Đâu về nhân bản?

Sứ mạng ơi! Sao đáng sứ đồ?

San hà vạn sắc điểm tô

Trung Châu một cõi diễn phô Đạo Trời.([34])

Đâu về nhân bản? Câu hỏi này nên hiểu là: Về đâu nhân bản? Lý do: Về đâu đảo ngữ thành đâu về cho vần với chữ đề cuối câu bốn ở khổ thơ trước đó.

*

Những gì trình bày trên đây chưa nói hết những khó khăn đối với quý huynh tỷ ngành Phổ Tế mỗi lúc cần khai thác Thánh Truyền Trung Hưng để soạn bài thuyết giảng tại họ đạo vào những dịp sóc vọng hằng tháng. Tuy nhiên, khi có dịp nhận diện các thử thách” tạm kể ra như thế, chúng ta ý thức rõ rằng muốn vận dụng hiệu quả Thánh Truyền Trung Hưng vào đạo sự Phổ Tế thì nên chuyên cần tham cứu kinh điển, có các sách tham khảo cần thiết, thường xuyên bồi bổ cho hành trang Phổ Tế của chính mình ...

HUỆ KHẢI

Tháng Tư Nhâm Dần (2022)

 



([1]) Bảo Thọ Thánh Nương, Trung Hưng Bửu Tòa, 22-7 Tân Sửu (Thứ Sáu 01-9-1961).

([2]) Tiếp Văn Pháp Quân, tu xá Phước Huệ Đàn, 09-9 Canh Tý (Thứ Sáu 28-10-1960).

([3]) Trường Sanh Phật Địa, Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([4]) tư thiết 思切: Đau đáu nghĩ tới.

([5]) Thái Bạch Kim Tinh, Tịnh Đường, 24-12 Giáp Thìn (Thứ Ba 26-01-1965).

([6]) Cao Đài Tiên Ông, Trung Hưng Bửu Tòa, 30-6 Canh Tý (Thứ Bảy 23-7-1960).

([7]) Tổng Lý Trần Hưng Đạo, Trung Hưng Bửu Tòa, 29-9 Canh Tý (Thứ Năm 17-11-1960).

([8]) Lý Thái Bạch, thánh thất Thái Hòa, 14-4 Ất Mùi (Thứ Bảy 04-6-1955).

([9]) Ch dữ dùng thông vi cử, tức là cùng có nghĩa cất nhắc, đề bạt.

([10]) Tiếp Văn Pháp Quân, tu xá Phước Huệ Đàn, 09-9 Canh Tý (Thứ Sáu 28-10-1960).

([11]) Xin đọc: Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài / A Preliminary Survey of Some Christian Terms Used in Caodaism. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2019.

([12]) Bảo Thọ Thánh Nương, thánh thất Thái Hòa, 10-7 Ất Mùi (Thứ Bảy 27-8-1955).

([13]) Chơn Khai Đạo Nhơn, Trung Hưng Bửu Tòa, 24-01 Mậu Tuất (Thứ Năm 13-3-1958).

([14]) Ngô Đại Tiên, tu xá Phước Huệ Đàn, 13-3 Canh Tý (Thứ Sáu 08-4-1960).

([15]) Huệ Khải, Đôi Điều Về Bình Giảng Thánh Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2016, tr. 76-79.

([16]) Từ Hàng Bồ Tát, Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([17]) Vô Cực Từ Tôn, Trung Hưng Bửu Tòa, 15-8 Canh Tý (Thứ Tư 05-10-1960).

([18]) Bảo Thọ Thánh Nương, tu xá Phước Huệ Đàn, 14-3 Canh Tý (Thứ Bảy 09-4-1960).

([19]) Cao Đài Thượng Đế, Trung Hưng Bửu Tòa, 08-6 Bính Thân (Chủ Nhựt 15-7-1956).

([20]) Trịnh Thị Thanh, tu xá Phước Huệ Đàn, 10-9 Canh Tý (Thứ Bảy 29-10-1960).

([21]) Bảo Thọ Thánh Nương, Trung Hưng Bửu Tòa, 14-8 Mậu Tuất (Thứ Sáu 26-9-1958).

([22]) Bảo Thọ Thánh Nương, tu xá Phước Huệ Đàn, 10-9 Canh Tý (Thứ Bảy 29-10-1960).

([23]) Từ Hàng Bồ Tát, Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([24]) Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thiên Lý Đàn (Sài Gòn), 10-8 Quý Mão (Thứ Sáu 27-9-1963).

([25]) Bảo Nguơn Chơn Quân, thánh thất Thái Hòa, 01-9 Ất Mùi (Chủ Nhựt 16-10-1955).

([26]) Bảo Thọ Thánh Nương, Trung Hưng Bửu Tòa, 13-3 Canh Tý (Thứ Sáu 08-4-1960).

([27]) Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([28]) Trường Sanh Phật Địa, Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([29]) Trung Hưng Bửu Tòa, 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961).

([30]) Thánh thất Trung An, 02-01 Ất Mùi (Thứ Ba 25-01-1955).

([31]) Thánh thất Từ Quang, 03-7 Ất Mùi (Thứ Bảy 20-8-1955).

([32]) Thánh thất Thái Hòa, 14-4 Ất Mùi (Thứ Bảy 04-6-1955)

([33]) Trần Hưng Đạo, thánh thất Thái Hòa, 06-5 Ất Mùi (Thứ Bảy 25-6-1955).

([34]) Trần Hưng Đạo Đại Vương, thánh đường Quảng Tín, 11-7 Canh Tuất (Thứ Tư 12-8-1970).