Thứ Năm, 29 tháng 9, 2016

27/2. NIÊN BIỂU / HÀNH TRẠNG TIỀN BỐI CAO TRIỀU PHÁT

NIÊN BIỂU TIỀN BỐI CAO TRIỀU PHÁT

GIA TỘC
Khoảng năm 1845: Ông nội tiền bối Cao Triều Phát là Cao Cần Thiệt (1825-1884), người Triều Châu, khoảng 20 tuổi, rời tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) tới Bạc Liêu khẩn hoang, lập nên đại nghiệp tại ấp Vĩnh Hinh, xã Vĩnh Lợi, tổng Thạnh Hòa, phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang. Ngày nay vùng này thuộc thị xã Bạc Liêu.
Cao Cần Thiệt kết hôn với Trình Thục Giang (1834-1892) là con một phú hộ tại Bạc Liêu. Hai ông bà sinh được hai trai, ba gái.([1])
Con thứ hai là Cao Minh Thạnh (1860-1919) làm trưởng nam vì đầu lòng là gái. Ông sớm trở thành người tai mắt ở địa phương:
1879: 20 tuổi, làm trưởng ấp Vĩnh Hinh; rồi làm hương chủ làng Vĩnh Lợi.
1900: 41 tuổi, làm cai tổng tổng Thạnh Hưng.
1904: 45 tuổi, được phong hàm huyện.
1912: 53 tuổi, được phong hàm phủ.
1918: 59 tuổi được phong hàm đốc phủ sứ.
Ông Cao Minh Thạnh có công đào kinh, đắp lộ, mở mang quận Vĩnh Châu,([2]) tài trợ cho Việt Nam Quang Phục Hội của chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940) và Kỳ Ngoại Hầu Cường Để (1882-1951). Trong công điện số 331-S ngày 05-12-1926 gởi giám đốc Tổng Nha Mật Thám Đông Dương, trùm mật thám Nam Kỳ là Paul Arnoux bảo rằng họ Cao là một gia đình chống Pháp (famille anti-française).([3])
Ông Cao Minh Thạnh kết hôn với Tào Thị Xút (1858-1901), người ấp An Trạch, làng Vĩnh Lợi. Hai ông bà sinh sáu trai (lót chữ Triều) và hai gái (lót chữ Thoại), theo thứ tự là:
Cao Triều Chấn (1877-1921);
Cao Triều Chánh (1880-1955);
Cao Triều Trực (1884-1968);
Cao Triều Trung (1886-1956);
Cao Triều Phát (1889-1956), con trai thứ năm nhưng theo tục lệ miền Nam gọi là Sáu Phát;
Cao Triều Hưng (1891-1957);
Cao Thoại Ý (1893-1990); và
Cao Thoại Kiết (1896-1920).([4])
TIỀN BỐI CAO TRIỀU PHÁT (1889-1956)
17-4-1889 (18-3 Kỷ Sửu): Giờ Thìn, tiền bối Cao Triều Phát chào đời tại ấp Vĩnh Hinh, làng Vĩnh Lợi, tổng Thạnh Hưng, hạt Bạc Liêu. Đi học, tên tự là Thuận Đạt, bút danh là Sơn Kỳ Giang.
1901: Thân mẫu tiền bối Cao Triều Phát tạ thế tại Bạc Liêu.([5])
1910: Tiền bối Cao Triều Phát tốt nghiệp collège Chasseloup-Laubat (Sài Gòn).([6]) Tiền bối không sang Pháp học vì cha mẹ sợ con lưu lạc xứ người.
1910-1912: tiền bối Cao Triều Phát học hai năm luật ở Sài Gòn, do Tòa Án Sài Gòn mở. Tốt nghiệp, về làm thư ký kiêm thông dịch tại Ty Niết (cơ quan tư pháp) ở Bạc Liêu.
1914: Thế Chiến thứ Nhất bùng nổ, quân Đức xuyên qua Bỉ kéo vào Pháp, hy vọng chiếm giữ Paris. Pháp đưa gần chín vạn người Việt sang Pháp để phục vụ chiến tranh Pháp-Đức. Tiền bối Cao Triều Phát đăng ký làm thông ngôn trong một đơn vị lính thợ (để sang Pháp mà khỏi tốn tiền nhà).
1914-1919: Tại Pháp, tiền bối Cao Triều Phát liên lạc với Tổng Liên Đoàn Lao Động Pháp nhờ trợ giúp bênh vực quyền lợi người thợ Việt Nam.
01-7-1919 (04-6-Kỷ Mùi): Thân phụ tiền bối Cao Triều Phát tạ thế tại Bạc Liêu.([7]) Tiền bối cũng vừa hết hạn hợp đồng thông ngôn, về nước thọ tang. Sau đó, trở qua Pháp.
1920-1922: Tại Pháp, tiền bối Cao Triều Phát có nhiều hoạt động như:
Quan hệ mật thiết với chí sĩ Phan Châu Trinh (1872-1926).([8])
Tiếp xúc các thủ lãnh công đoàn, các chính khách cánh tả. Diễn thuyết để dân Pháp biết đúng về Việt Nam.
Tham gia Viện Hàn Lâm Khoa Học, Nghệ Thuật Và Văn Chương La-Tinh (Académie latine des Sciences, Arts et Belles Lettres).
Tham gia Hội Hàn Lâm Lịch Sử Quốc Tế (Société académique d’Histoire internationale).
Tham gia Liên Hiệp Quốc Tế Các Hội Bác Học (Fédération internationale des Sociétés savantes)...
Gia nhập Hội Nhân Quyền (Ligue des droits de l’homme),([9]) Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie).([10])
11-8-1922: Tiền bối Cao Triều Phát lên tàu thủy về nước, cập bến Sài Gòn giữa tháng 9-1922.
Về sau, viết báo La Tribune indigène (Diễn đàn bản xứ) trong bước đầu thể nghiệm đấu tranh chống Pháp công khai tại Sài Gòn.
26-6-1925: Chí sĩ Phan Châu Trinh rời Paris về Sài Gòn. Tiền bối Cao Triều Phát thường tiếp xúc Phan chí sĩ tại khách sạn Bá Huê Lầu (số 54 đường Pellerin, nay là Pasteur).([11])
Tháng 8 hay 9-1925 (tháng 7 Ất Sửu): Nhóm cầu tiên ở phố Hàng Dừa (Arras) gồm ba tiền bối Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc nhờ thông công tiếp xúc được Đức Thượng Đế Cao Đài tá danh là AĂÂ.
Tháng 11-1925: Tiền bối Cao Triều Phát dự hai buổi diễn thuyết của chí sĩ Phan Châu Trinh: “Đạo Đức Và Luân Lý Đông Tây”, ngày 19; và “Quân Trị Chủ Nghĩa Và Dân Trị Chủ Nghĩa”, ngày 27.
31-12-1925 (16-11 Ất Sửu): Nhóm cầu tiên ở phố Hàng Dừa (Arras) vọng Thiên cầu đạo, trở thành môn đệ Đức Thượng Đế Cao Đài. (Trong khoảng thời gian 1925-1926, tiền bối Cao Triều Phát có lần tham dự một buổi cầu tiên tại phố Hàng Dừa.)
21-3-1926: Tiền bối Cao Triều Phát dự cuộc mít-tinh quy tụ khoảng ba ngàn người tại Vườn Xoài, xóm Lách trên đường Lanzarotte (nay là đường Đoàn Công Bửu, phường 7, quận 3) để phản đối thực dân Pháp đàn áp nhà báo Trương Cao Động. Trên đường về, tiền bối bị bắt đưa về bót Catinat và bị giam chung với sáu mươi người nữa. Nhờ báo chí tranh đấu, thống đốc Nam Kỳ Maurice Cognacq ([12]) phải lệnh cho thanh tra mật thám Bazin ([13]) thả ra sau ba ngày giam giữ tiền bối.
Tháng 10-1926 (tháng 9 Bính Dần): Bạc Liêu bắt đầu biết đạo Cao Đài khi các tiền bối Cao Quỳnh Cư, Đào Văn Chỉ, Hà Văn Điền, Lâm Hương Thanh, Lê Văn Giảng, Lê Văn Trung, Lê Văn Yên, Lưu Quang Viễn, Nguyễn Ngọc Thơ, Nguyễn Văn Biện, Phạm Công Tắc, Trần Đạo Quang, v.v… tuân lịnh Đức Cao Đài đi truyền đạo, lập đàn cơ phổ độ ở chín tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Sóc Trăng, Trà Vinh, và Vĩnh Long.
12-11-1926: Lúc 3 giờ chiều, tại nhà hàng Cửu Long Giang, số 162-164 đường Espagne (nay là Lê Thánh Tôn, quận 1), Đông Dương Lao Động Đảng được thành lập, trụ sở Đảng tại 112 đường Espagne. Tiền bối Cao Triều Phát là người sáng lập và soạn Điều Lệ Đảng, được cử làm chánh đảng trưởng, và làm cố vấn chánh trị cho hai diễn đàn của Đảng là: Nhựt Tân Báo (ra ngày thứ Năm, chủ nhiệm là Cao Hải Để); báo L’Ère nouvelle (Kỷ nguyên mới, ra ngày thứ Ba và thứ Bảy).
17-8-1926: L’Ère nouvelle ra số đầu tiên.
Khoảng 1928: Tiền bối Trương Kế An (1899-1983), bác sĩ, lập đàn Minh Thiên ở làng Vĩnh Lợi (Bạc Liêu).
03-10-1929: Cao Gia Tộc Phổ do hai tiền bối Cao Triều Trực (1884-1968) và Cao Triều Hưng (1891-1957) soạn và xuất bản. In lần nhì năm 1950.
Tháng 6-1929: Thực dân Pháp đóng cửa báo L’Ère nouvelle (ngày 22); bắt giam chủ nhiệm Cao Hải Để và lục soát tòa soạn (ngày 25).
06-7-1929: Thực dân Pháp đóng cửa Nhựt Tân Báo.
1930: Tiền bối Cao Triều Phát được bầu vào Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de Cochinchine).([14])
30-4-1932 (25-3 Nhâm Thân): Tiền bối Cao Triều Phát nhập môn Cao Đài tại thánh thất Thái Dương Minh, ấp Thạch Sau, xã Khánh Hòa, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng, thuộc Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo. Hai vị tiến dẫn là Giáo Sư Nguyễn Kim Khuê và Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang (1870-1946). Thánh thất Thái Dương Minh cất trên đất nhà (xã Khánh Hòa, quận Vĩnh Châu, tỉnh Bạc Liêu), do tiền bối Cao Triều Phát hiến tặng để dân trong vùng có nơi tu hành.([15])
1932: Tiền bối Cao Triều Phát là Bảo Đạo Hiệp Thiên Đài Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo.
13-10-1933 (24-8 Quý Dậu): Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch gieo ý thức về công đồng giáo lý phục vụ Đông Tây.
18 đến 20-5-1934 (06 đến 08-4 Giáp Tuất): Tiền bối Cao Triều Phát được Ơn Trên giao nhiệm vụ chủ trì một đại hội với tên gọi Hội Lý Đạo Công Đồng Giáo Lý Tôn Giáo, do Hội Thánh Minh Chơn Đạo tổ chức tại thánh thất Ngọc Phước Đàn (Bạc Liêu), mời các tôn giáo bạn (Thiên Chúa, Tin Lành, Phật, các phái Cao Đài), mục đích xiển dương vạn giáo nhứt lý. Có mười sáu bản tham luận, sau khi đại hội bế mạc lại nhận thêm sáu bản nữa. Là chủ tịch đại hội, sau đó tiền bối Cao Triều Phát đã kết tập tài liệu, với bút danh Sơn Kỳ Giang, xuất bản thành quyển Sau Khi Cuộc Công Đồng Giáo Lý Tôn Giáo, 225 trang (16x24cm), in tại nhà in Đức Lưu Phương (Sài Gòn).
28-8-1934 (19-7 Giáp Tuất): Giờ Tý, tại Ngọc Minh Đàn (thánh thất Ngọc Minh, ở Giồng Bốm, xã Phong Thạnh, quận Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu),([16]) thân phụ tiền bối Cao Triều Phát giáng cơ với quả vị là Minh Cảnh Thần Chơn. Ngài xưng danh như sau:
MINH chúc CAO tân sắc Ngọc Cung,
CẢNH thiên MINH thệ chí tâm trung,
THẦN triều THẠNH phước nhơn an lạc,
CHƠN giáo truyền ân PHÁT ngộ tùng.
Bài thơ khoán thủ là hồng danh Minh Cảnh Thần Chơn, khoán tâm là Cao Minh ThạnhPhát.
Khoảng 1935: Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch giao tiền bối Cao Triều Phát sưu tập và biên soạn Lễ Bổn.
14-02-1937 (04-01 Đinh Sửu): Tại Tòa Thánh Hậu Giang (Minh Chơn Đạo), Đức Cao Đài dạy tiền bối Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang và tiền bối Bảo Đạo Cao Triều Phát ngày 27-3-1937 (15-02 Đinh Sửu) ra Trung Kỳ để yểm trợ bổn đạo xây dựng thánh thất Trung Thành. Đức Chí Tôn dạy:
“Đạo Quang, Triều Phát hai con nghe Thầy dạy.
Đạo Quang, con vì Đạo, vì nhân sinh, con phải thân hành đi đến Trung Kỳ mở cơ quy nguyên và hoằng hóa.
Phát, vì con mến Đạo thương đời, con phải nhọc nhằn với Đạo, mượn thế để giác thế, lo việc ngoại giao với Nam triều.
Vậy hai con nghe đây:
Con vì Đạo chơn trời góc bể
Con thương đời chi nệ đắng cay
Nghiêng vai gồng gánh Đạo Thầy
Phổ thông tôn chỉ Cao Đài chánh chơn
Giục đại cổ chiêu hồn trụy lạc
Khai hồng chung cầu đạt vạn sanh
Hai con trọng trách tâm thành
Nhị ngoạt thập ngũ thượng hành Trung Hưng
Hiệp nhau lại cùng chung huynh đệ
Chuyển cơ linh kẻo trễ thời kỳ
Hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ
Nhơn sanh hưởng ứng đồng quy về cùng
Quang, Phát! Hai con đến Trung Hưng…”
27-3-1937 (15-02 Đinh Sửu): Tiền bối Bảo Đạo Cao Triều Phát và tiền bối Ngọc Chưởng Pháp Trần Đạo Quang vâng lịnh Đức Cao Đài ra Trung Kỳ để yểm trợ bổn đạo xây dựng thánh thất Trung Thành.
15-11-1937 (13-10 Đinh Sửu): Tại Thông Thiên Đài, giờ Dậu, tiền bối Cao Triều Phát trình dâng Ơn Trên bản thảo Lễ Bổn (Dương Sự, Thể Thức, Tang Tế, Cầu Siêu) do tiền bối sưu tập và biên soạn trong hai năm, gồm trên một trăm năm mươi bài kinh. Giờ Tý 14 rạng 15-10 Đinh Sửu, Đức Đông Phương Lão Tổ phê duyệt, cho phép ấn hành.
1938: Tiền bối Cao Triều Phát thành lập Thanh Niên Đạo Đức Đoàn quy tụ thanh niên Cao Đài Hội Thánh Hậu Giang để huấn luyện những phần tử ưu tú, đạo đức, ngõ hầu xây dựng nền móng thuần túy, ổn định cho Đạo. Tiền bối được Hội Thánh cử làm Tổng Trưởng.
Tháng 9-1939: Tiền bối Cao Triều Phát xuất bản Lễ Bổn (Dương Sự, Thể Thức, Tang Tế, Cầu Siêu). Sách dày hơn 140 trang, in tại nhà in Nguyễn Lộc Tiêng, số 63, đường Lamothe de Carrier, Bạc Liêu. Giá 4 cắc một cuốn.([17])
27-10-1939 (15-9 Kỷ Mão): Bản điều lệ hoạt động của Thanh Niên Đạo Đức Đoàn với tên gọi Kỷ Luật Thanh Niên Đoàn Đạo Đức, gồm tám điều, do tiền bối Cao Triều Phát soạn được gởi đến chánh quyền thuộc địa. Một tháng sau, ngày 27-11, chủ tỉnh Bạc Liêu là Larivière ký duyệt. Sau đó, bản điều lệ được in tại nhà in Nguyễn Lộc Tiêng (Bạc Liêu), dày 18 trang (12,5x15,5cm). Theo đó, tín đồ nam (18-35 tuổi) gọi là thanh niên, mặc áo dài trắng và đội khăn đóng đen. Tín đồ nữ (16-30 tuổi) gọi là thanh xuân, mặc áo dài trắng.
10-7-1940: Thống Đốc Nam Kỳ René Veber ([18]) ra nghị định 3949 đóng cửa toàn bộ các thánh thất của Minh Chơn Đạo.
12-7-1940: Bằng đạo dụ số 3985, Thống Đốc Nam Kỳ René Veber ra lệnh khám xét các thánh thất của Minh Chơn Đạo và nhà riêng của tiền bối Cao Triều Phát. Lúc 6 giờ sáng, nhà của tiền bối ở xóm Nhà Đèn, làng Vĩnh Lợi, thị xã Bạc Liêu bị khám xét (trong khi tiền bối không có nhà). Lúc 10 giờ 30 sáng, một nhà khác của tiền bối ở xã Khánh Hòa, huyện Vĩnh Châu cũng bị khám xét và Pháp tịch thu một số sách vở, giấy tờ.
08-4-1943: Tiền bối Cao Triều Phát bị quản chế trong phạm vi tỉnh Bạc Liêu, mỗi tuần phải trình diện một lần, do quyết định số 2519 của Thống Đốc Nam Kỳ Ernest Thimothée Hoeffel.([19])
Đêm 09-3-1945: Nhật đảo chánh, hất chân Pháp.
24-6-1945 (15-5 Ất Dậu): Thay mặt Hội Thánh Minh Chơn Đạo, tiền bối Cao Triều Phát hiệp cùng các phái Cao Đài thành lập Cao Đài Mười Một Phái Hiệp Nhứt tại Tam Giáo Điện Minh Tân (số 221, quai de la Marne, nay là bến Vân Đồn, Vĩnh Hội, Sài Gòn). Tiền bối được bầu làm chủ tịch, lãnh đạo tín đồ giữ vững chơn truyền đạo Cao Đài, không để cho danh xưng Cao Đài bị các phe nhóm chánh trị và quân sự lợi dụng.
Khoảng giữa tháng 8-1945: Tiền bối Cao Triều Phát làm phó chủ nhiệm Ủy Ban Mặt Trận Việt Minh tỉnh Bạc Liêu.
22-8-1945: Tiền bối Cao Triều Phát làm chủ tịch Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc tỉnh Bạc Liêu.
Tháng 9-1945: Từ 17 đến 24, tiền bối Cao Triều Phát vận động tín đồ Cao Đài Minh Chơn Đạo tham gia “Quỹ độc lập” và “Tuần lễ vàng”. Tiền bối và gia đình hiến cách mạng năm ngàn héc-ta ruộng và tất cả số vàng dành dụm của gia đình.
01-10 đến 15-11-1945: Tiền bối Cao Triều Phát làm chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Bạc Liêu.
19 và 20-11-1945: Tiền bối Cao Triều Phát triệu tập hội nghị chức sắc toàn Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo để thảo luận và quyết định thành lập mặt trận Giồng Bốm hay là rút vào rừng. Quyết nghị là lập mặt trận để chống trả quân Pháp.
16-11-45 đến 06-01-1946: Tiền bối Cao Triều Phát làm ủy viên trưởng Tài Chánh Kinh Tế của Ủy Ban Kháng Chiến miền Hậu Giang.
06-01-1946: Tiền bối Cao Triều Phát được bầu vào Quốc Hội (đại biểu tỉnh Bạc Liêu).
Tháng 02-1946: Tiền bối Cao Triều Phát làm cố vấn quân sự tối cao chiến khu 9.
06-01 đến 24-4-1946: Tiền bối Cao Triều Phát làm chỉ huy trưởng mặt trận Giồng Bốm, bị trúng mảnh đạn pháo. Nhờ chiến sĩ Y liều chết, cõng xuống chiếc xuồng con neo ở Lung Lá mới thoát hiểm. Mặt trận tan vỡ.([20])
02-11-1946: Tiền bối Cao Triều Phát phát động phong trào Quyển sổ vàng Cao Đài cứu quốc gây quỹ kháng chiến. Tiền bối cùng với gia đình đóng góp 1.540 đồng. Sau bốn tháng vận động tín đồ được thêm 136.478 đồng (thời ấy, một đồng mua được một giạ lúa).
06-3-1947: Tiền bối Cao Triều Phát rời chiến khu 9 vào chiến khu Đồng Tháp Mười, lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng. Tiền bối sống và làm việc dưới mái nhà lợp đưng ([21]) bên bờ kinh Dương Văn Dương. Trong chiến khu, khi đi làm việc các nơi, tiền bối đội nón cối hay nón bàng, lưng mang nóp bàng, một tay cắp cặp cũng đan bằng bàng, một tay chống gậy.
Tháng 7-1947: Tiền bối Cao Triều Phát vận động tín đồ đóng góp một trăm ngàn đồng mua đấu giá chiếc áo lụa của Hồ Chủ Tịch để gây quỹ giúp đỡ thương binh.([22])
14 đến 17-10-1947: Tại chiến khu Đồng Tháp Mười, Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai Phái Hiệp Nhứt ra đời. Tiền bối Cao Triều Phát làm chủ tịch. Báo Đường Sáng là cơ quan ngôn luận của tổ chức này, do Cao Hải Để làm chủ nhiệm.
16-10-1947: Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai Phái Hiệp Nhứt bầu ra Hội Thánh Duy Nhứt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
1948: Hội Nghị Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ (UBKC) diễn ra tại bưng biền Đồng Tháp Mười. Tiền bối Cao Triều Phát (cố vấn UBKC) đã tham dự. Hội Nghị này có mặt các ông: Lê Duẩn (bí thư xứ ủy), Lê Đức Thọ (chính ủy phân liên khu miền Tây Nam Bộ), Phạm Văn Bạch (chủ tịch UBKC), Phạm Ngọc Thuần (phó chủ tịch UBKC), Phan Văn Chương (đổng lý văn phòng UBKC), Ngô Tấn Nhơn (đặc phái viên của Chính Phủ bên cạnh UBKC)...
14 đến 18-10-1948: Tại chiến khu Đồng Tháp Mười, Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai Phái Hiệp Nhứt đổi tên thành Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai Phái Thống Nhứt, tiền bối Cao Triều Phát làm chủ tịch.([23])
19-10-1948: Hội Thánh Duy Nhứt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ công cử tiền bối Cao Triều Phát nắm quyền chưởng quản Cửu Trùng Đài.
25-4-1949: Tiền bối Cao Triều Phát được tặng Huân Chương Độc Lập hạng Nhì, do quyết định số 32/SL, Chủ Tịch nước Hồ Chí Minh ký.
1953: Tiền bối Cao Triều Phát công tác ở Vàm Cái Nước, Cà Mau. Bên cạnh có vợ (Châu Thị Tùng), con gái Cao Bạch Liên, con trai Cao Triều Khiết, và con gái nuôi (Ba Kim). Trong năm này, tiền bối dự Liên Hoan Các Dân Tộc, Các Tôn Giáo Và Các Giới do Ủy Ban Liên Việt Nam Bộ tổ chức ở miền Tây Nam Bộ.
28-02-1953: Khi được hội nghị khoáng đại Cao Đài Cứu Quốc lần thứ Tư đề nghị mặc phẩm phục Giáo Tông, tiền bối Cao Triều Phát từ khước, và nói: “Cứu nhơn sanh không phải bằng đạo phục. (…) Tôi trước đây đã lội sình, ăn cơm gạo mốc mà vẫn cứu được nhơn sanh. Không phải tôi cực khổ để có được ngôi Giáo Tông.”
26-4-1954: Hội Nghị Genève (tại Thụy Sĩ) khai mạc, bàn về vấn đề khôi phục hòa bình tại Triều Tiên và Đông Dương.
08-5 đến 23-6-1954: Hội Nghị Genève thảo luận vấn đề Đông Dương vì vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả.
24-6 đến 20-7-1954: Tại Hội Nghị Genève phái đoàn Pháp và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đàm phán trực tiếp để giải quyết các vấn đề cụ thể.
21-7-1954: Hiệp Định Genève bắt đầu được ký kết, chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại bán đảo Đông Dương, công nhận nền độc lập của ba nước Việt Nam, Lào, và Cam Bốt. Trong những nội dung cơ bản, có quy định: lấy sông Bến Hải (vĩ tuyến 17) làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân sự; chính quyền và quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tập trung về miền Bắc; chính quyền và quân đội khối Liên Hiệp Pháp tập trung về miền Nam; dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền trong ba trăm ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung, v.v...
28-8-1954: Chính quyền cách mạng ra mắt đồng bào thị xã Cà Mau trước ngày tập kết. Dịp này, tiền bối Cao Triều Phát và ông Lê Duẩn (bí thư xứ ủy) cùng đặt vòng hoa tưởng niệm trước đài liệt sĩ. Buổi lễ có mặt luật sư Phạm Văn Bạch (chủ tịch Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ).
17-9-1954: Tiền bối Cao Triều Phát tập kết ra Bắc, từ sân bay Tân Sơn Nhứt bay ra Gia Lâm (Hà Nội). Vì Hà Nội chưa được tiếp quản, tiền bối đi lên huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là nơi đang đặt các cơ quan trung ương của chính quyền cách mạng. Tiền bối tới nơi vào chiều ngày 19.
10-10-1954: Tiền bối Cao Triều Phát đặt chân tới Hà Nội.
1954: Tiền bối Cao Triều Phát cùng đoàn đại biểu dự Hội Nghị Hòa Bình Thế Giới tại Thụy Điển. Trong đoàn có các ông: Tâm Minh Lê Đình Thám (trưởng đoàn),([24]) Xuân Thủy (phó đoàn), Hồ Thành Biên (linh mục), Huỳnh Văn Trí (sư thúc Hòa Hảo), La Côn và Xuân Oanh (hai phiên dịch). Trong hành trình đoàn có ghé Trung Quốc, viếng Ung Hòa Cung (chùa Lạt Ma Giáo).([25]) Tiền bối cùng với đoàn đã ghé Mạc Tư Khoa (Nga) cũng trong hành trình này.
01-01-1955: Tiền bối Cao Triều Phát tổ chức hội nghị thống nhất đạo Cao Đài ở miền Bắc.
24-01-1955 (01-01 Ất Mùi): Tại thánh thất Hà Nội (48 Hòa Mã, quận Hai Bà Trưng), tiền bối Cao Triều Phát tổ chức buổi họp giới thiệu đạo Cao Đài với đồng bào và chính quyền.
06-02-1955 (14-01 Ất Mùi): Tiền bối Cao Triều Phát với cương vị là Anh Cả chưởng quản Cửu Trùng Đài của Hội Thánh Duy Nhứt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, ban hành đạo lịnh số 02 ([26]) như sau:

ĐẠO LỊNH

HỘI THÁNH DUY NHỨT ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ

(Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai Phái Hợp Nhất)
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Xét vì đại hội nhơn sanh mười hai phái Đạo họp ngày 14-10-1948 ở Đồng Tháp Mười đã bầu lên Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh Duy Nhứt để đảm nhận những quyền tối cao của vị Giáo Tông quy định trong Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Xét vì Thượng Hội dưới quyền chủ tọa của Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh Duy Nhứt có thẩm quyền phong thưởng chức sắc cho mười hai phái Đạo trong hàng ngũ Cao Đài Cứu Quốc đã giữ vững chơn truyền của Đại Đạo và đã tham gia cứu nước và kiến thiết nước nhà,
Chiếu y chương trình hành đạo được Khoáng Đại Hội Nghị Cao Đài Cứu Quốc Nam Bộ thông qua ngày 14-10-1948.
RA ĐẠO LỊNH

Điều thứ nhứt

a. Hiền hữu Đầu Họ Đạo, hiền hữu Chánh Hội Trưởng Ban Cai Quản thánh thất trung ương Hà Nội thuộc phái Ban Chỉnh Đạo và các Ban Trị Sự trực thuộc,
b. Hiền hữu Đầu Tộc Đạo, hiền hữu Chánh Hội Trưởng Ban Cai Quản thánh thất Thăng Long thuộc phái Tòa Thánh Tây Ninh và các Ban Trị Sự trực thuộc,
Đoàn kết hợp tác với nhau đi các nơi củng cố hàng ngũ tín đồ, trấn tĩnh tinh thần bổn đạo ở thủ đô và các tỉnh.

Điều thứ hai

Vị Giáo Hữu Thượng Pho Thanh và vị Lễ Sanh Thái Thái Thanh, mỗi người tùy theo phận sự, chiếu Đạo Lịnh thi hành.
Thủ đô Hà Nội, ngày 14 tháng Giêng âm lịch năm Ất Mùi (06-02-1955).
Anh Cả
Chưởng Quản Cửu Trùng Đài
Hội Thánh Duy Nhứt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai Phái Hợp Nhứt)
Cao Triều Phát
(Chữ ký và con dấu)
Tháng 3-1955: Tiền bối Cao Triều Phát làm đại biểu Quốc Hội khóa I, tham dự kỳ họp thứ tư tại Hà Nội.
29-9-1955 (14-8 Ất Mùi): Anh Cả Cao Triều Phát thăng Lễ Sanh Đoàn Thị Dư (thánh thất Thăng Long) lên phẩm Giáo Sư. Anh Cả phân định Thượng Phối Sư Nguyễn Văn Khoan về hành đạo ở thánh thất Hà Nội (Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo), Thái Đầu Sư Nguyễn Hiền Ngô về thánh thất Thăng Long (Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh).
07-9-1956: Buổi tối, tiền bối Cao Triều Phát thọ bệnh (xuất huyết bao tử). Lúc này tiền bối và gia đình ngụ ở số 26C Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
09-9-1956 (05-8 Bính Thân): Lúc 2 giờ chiều, tiền bối Cao Triều Phát quy thiên tại bệnh viện B303 (Hà Nội). Linh cữu quàn tại Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (46 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Chủ Tịch nước Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Quốc Hội Tôn Đức Thắng, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng kính viếng với ba vòng hoa, đều có hàng chữ “Vô cùng thương tiếc Cụ Cao Triều Phát”.
10-9-1956: Lúc 13 giờ 30, xe tang đưa linh cữu tiền bối Cao Triều Phát rời trụ sở Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam (46 Tràng Thi, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) đưa đến nghĩa trang Nam Kỳ (số 32 Nguyễn Công Trứ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Tại nghĩa trang, Chủ Tịch Quốc Hội Tôn Đức Thắng đọc điếu văn vĩnh biệt tiền bối Cao Triều Phát.
1956: Sau khi tiền bối quy thiên, Bảo Tàng Cách Mạng xin gia đình chiếc áo lụa của Hồ Chủ Tịch để làm hiện vật lịch sử. Chiếc áo này do tiền bối Cao Triều Phát vận động tín đồ đóng góp một trăm ngàn đồng mua đấu giá để gây quỹ giúp đỡ thương binh (tháng 7-1947).
1960: Di hài tiền bối Cao Triều Phát được cải táng lần thứ nhất, để đưa về nghĩa trang Đa Phúc, tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội 46km, vì nghĩa trang Nam Kỳ (số 32 Nguyễn Công Trứ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) bị giải tỏa để làm bến xe Thống Nhất.
1961: Di hài tiền bối Cao Triều Phát được cải táng lần thứ hai, để đưa về nghĩa trang Yên Kỳ, xã Bất Bạt, huyện Ba Vì, tỉnh Sơn Tây, vì nghĩa trang Đa Phúc (tỉnh Vĩnh Phúc, cách Hà Nội 46km) bị giải tỏa để làm sân bay Nội Bài.
30-4-1961: Chủ Tịch nước Hồ Chí Minh ký truy tặng tiền bối Cao Triều Phát Huân Chương Kháng Chiến hạng Nhất, quyết định số 49/LCT.
30-8-1961: Chủ Tịch nước Hồ Chí Minh ký truy tặng tiền bối Cao Triều Phát thêm Huân Chương Kháng Chiến hạng Nhất, quyết định số 22/LCT.
25-01-1966 (05-01 Bính Ngọ): Tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (thuộc Hội Thánh Tiên Thiên, đường Nguyễn Khoái, Vĩnh Hội, quận 4, Sài Gòn), Đức Cao Triều Phát giáng cơ xưng là: “Bảo Đạo chưởng quản Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Hậu Giang”. Tiền bối dạy:
Thân xác gởi dặm trường quan ải,
Hồn linh còn đi lại các nơi.
Để lo xây dựng Đạo Trời,
Chờ cơ hội đến chờ thời phục hưng.
Đem giáo lý phong thuần mỹ tục,
Cho muôn dân hưởng phút thanh nhàn.
Cho người đừng tưởng trái ngang,
Đời đời đạo đạo mà toan nghĩ lầm.
08-02-1967 (29-12 Bính Ngọ): Đàn giờ Tuất tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (thuộc Hội Thánh Tiên Thiên, đường Nguyễn Khoái, Vĩnh Hội, quận 4, Sài Gòn), Đức Chí Tôn dạy: “Thầy đã truyền lịnh cho Cao Triều Phát lai đàn hầu dạy thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý, để cho các con được thông cảm tình đồng đạo, và Cao Triều Phát lập công tiến vị theo sự khẩn cầu của Tiền Bối Đại Đạo đang ở bên cạnh của Thầy.” Sau đó, Đức Cao Triều Phát giáng cơ, xưng danh:
CAO thấp hơn thua một nước cờ,
TRIỀU suy kẻ sĩ há làm ngơ,
PHÁT ngôn chẳng ngại ai thương ghét,
Bản tánh như nhiên tự thuở giờ.
20-8-1967 (15-7 Đinh Mùi): Tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài (thuộc Hội Thánh Tiên Thiên, đường Nguyễn Khoái, Vĩnh Hội, quận 4, Sài Gòn), chiếu theo sắc lịnh Đức Lý Giáo Tông giao phó, Thanh Thiếu Niên Phổ Thông Giáo Lý ([27]) được đặt dưới quyền trực tiếp lãnh đạo vô vi của Đức Tiền Bối Cao Triều Phát.
22-6-1969: Tại Sài Gòn, trên báo Đuốc Nhà Nam, Thiếu Sơn (Lê Sĩ Quý, 1908-1978) viết: “Hiện tượng Cao Triều Phát là một hiện tượng đặc biệt nói lên cái nghĩa khí của người dân Nam Bộ, hơn nữa lại là một nhà giàu muôn hộ trọng nghĩa và khinh tài.”
02-12-1971 (15-10 Tân Hợi): Tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Đức Cao Triều Phát dạy thanh thiếu niên: “Tiên Huynh đã đi qua, chiếc bóng đã nằm xuống. Nhưng tinh thần của Tiên Huynh mãi mãi theo gót chân của các em mà đi vào ánh sáng Đạo, vào bóng tối của trần gian.”
Tháng 9-1983: Di hài tiền bối Cao Triều Phát được cải táng lần thứ ba (hỏa táng). Thánh thất Đô Thành (số 414/30 Hậu Giang, phường 12, quận 6, thuộc Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo) tổ chức cung nghinh di cốt tiền bối (hũ tro) về thánh thất để làm lễ truy điệu. Sau đó di cốt được đưa về nhà riêng của con gái và rể (số 4 Đặng Tất, phường Tân Định, quận 1).
21-5-2000: Di cốt (hũ tro) của tiền bối Cao Triều Phát được đưa về nghĩa trang thành phố (quận Thủ Đức).
01-01-2001: Trần Bạch Đằng viết trên nhật báo Cần Thơ, số 1: “Tôi nghe tiếng Cụ Cao Triều Phát khi tôi còn đi học bậc tiểu học. Có một cái gì đó như huyền thoại bao quanh Cụ mà thỉnh thoảng cha tôi nhắc đến với sự kính trọng đặc biệt...”
09-9-2001: Lúc 9 giờ sáng, kỷ niệm lần thứ bốn mươi lăm ngày tiền bối Cao Triều Phát quy thiên, câu lạc bộ Văn Học thuộc Cung Văn Hóa Lao Động Thành Phố (55B Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1) tổ chức nói chuyện về cuộc đời tiền bối. Nhà văn Dũ Lan Lê Anh Dũng giới thiệu tác giả Phan Văn Hoàng (thạc sĩ sử học) và Chương I (Vào Đời), Chương II (Thử Nghiệm) trong tác phẩm Cao Triều Phát – Nghĩa Khí Nam Bộ (Nhà xuất bản Trẻ, 2001). Nhà nghiên cứu Lan Đình giới thiệu Chương III (Dấn Thân) trong tác phẩm này của thạc sĩ Phan Văn Hoàng. Nhà văn Nguyên Hùng, nhà văn Trần Kim Trắc, và tác giả Phan Văn Hoàng đã phát biểu cảm tưởng.
06-11-2001: Chủ Tịch nước Trần Đức Lương ký truy tặng tiền bối Cao Triều Phát Huân Chương Hồ Chí Minh, quyết định số 854/KTCT. Trao tặng ngày 29-12-2001.
12-2002: Hiền tỷ Cao Bạch Liên, ái nữ tiền bối Cao Triều Phát hoàn thành bản thảo hồi ức Cha Và Con (hai tập).
09-9-2006: Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tại thành phố tổ chức họp mặt tại số 55 Mạc Đĩnh Chi, quận 1, để kỷ niệm năm mươi năm ngày tiền bối Cao Triều Phát quy thiên. Ngoài phần phát biểu của Chủ Tịch Mặt Trận (Trần Thành Long), các vị: Đạo trưởng Thiên Vương Tinh (phụ tá Bảo Pháp Chơn Quân, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo), Giáo Sư Thượng Minh Thanh (trưởng ban đại diện Văn Phòng Đại Diện của Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh tại thành phố), Giáo Sư Ngọc Đầy Thanh (trưởng ban đại diện Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo tại thành phố), Đầu Sư Thượng Sáng Nhựt (Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo)... đã lần lượt đọc tham luận, phát biểu cảm tưởng.
31-10-2006: Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết ký truy tặng tiền bối Cao Triều Phát Huân Chương Vì Sự Nghiệp Đại Đoàn Kết Dân Tộc. Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tổ chức truy tặng ngày 11-8-2007.
Tháng 9-2010: Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài liên kết nhà xuất bản Tôn Giáo (Hà Nội) ấn tống năm ngàn bản Hành Trạng Tiền Bối Cao Triều Phát, kỷ niệm ngày tiền bối quy thiên (09-9-1956 / 09-9-2010).
HUỆ KHẢI




([1]) Ngày nay, ở rạch Cần Thăng (phường 5, thị xã Bạc Liêu) còn ngôi mộ cổ, đắp đất, hiệp táng hai ông bà. Phủ thờ tộc họ Cao hiện nay ở số 90 Đống Đa, phường 5, thị xã Bạc Liêu.
([2]) Ông góp công xây dựng miếu Tiên Sư và chùa Cây Me (thị xã Bạc Liêu), linh vị còn thờ tại miếu và chùa này.
([3]) Phan Văn Hoàng, Cao Triều Phát – Nghĩa Khí Nam Bộ. Nxb Trẻ, 2001, tr. 29.
([4]) Người con gái út là nhân vật rất đặc biệt, sanh giờ Tuất, ngày 28-02-1896 (16-01 Bính Thân) tại Bạc Liêu. Năm 1916 (Bính Thìn) cô kết hôn với Nguyễn Bá Tính, là con thứ của đốc phủ sứ Nguyễn Bá Phước, người ấp Tân Hưng, xã Vĩnh Lợi. Ngày 12-7-1920 (27-5 Canh Thân), bà qua đời (lúc 23 giờ 30), 25 tuổi, chưa có con. (Theo Cao Gia Tộc Phổ, xuất bản kỳ Nhì, năm Canh Dần, 1950, tr. 44.) Sau khi quy thiên, bà là Cửu Nương, vị thứ chín trong chín vị Tiên Nương Diêu Trì Cung, phò giá Đức Phật Mẫu (Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn).
([5]) Ngôi mộ đắp đất, tại Giồng Ông Hựu (phường 5, thị xã Bạc Liêu).
([6]) Lược sử trường này như sau: Pháp thành lập école Normale colonial (trường sư phạm thuộc địa, 10-7-1871); xây trên phần đất chùa Khải Tường (12-8-1871). Đổi tên thành collège Indigène (trường bản xứ, 1874), có lẽ do một nghị định của Phó Đô Đốc, Thống Đốc Nam Kỳ Jules François Emile Krantz ký ngày 14-11-1874. Đổi tên thành collège Chasseloup-Laubat (1876), chia ra khu Âu (quartier européen) và khu bản xứ (quartier indigène). Tách khu bản xứ nhập sang collège de Cochinchine (trung học Nam Kỳ, 15-7-1927). Collège Chasseloup-Laubat đổi tên thành lycée Chasseloup-Laubat (1928), còn collège de Cochinchine đổi tên thành lycée Petrus Ký. [Theo Nguyễn Đình Đầu, “Giáo Dục Dưới Triều Nguyễn Và Dưới Thời Pháp (1698-1955)”, trong Địa Chí Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh, tập II: Văn Học Báo Chí Giáo Dục. 1998, tr. 696, 730.] Nói thêm: Chasseloup-Laubat là Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa của triều đình Pháp, chủ trương chiếm Sài Gòn để làm căn cứ thuận lợi cho quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông. Ông ta tác động vua Napoléon III rất nhiều trong chính sách xâm lược, cướp Nam Kỳ làm thuộc địa. [Theo Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ. Sài Gòn: Trung Tâm Sản Xuất Học Liệu Bộ Văn Hóa Giáo Dục Và Thanh Niên, 1974, tr. 14, 22, 25.]
([7]) Ngôi mộ xây đá, tại Giồng Ông Hựu (phường 5, thị xã Bạc Liêu).
([8]) Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu là hai nhà ái quốc mà tiền bối Cao Triều Phát hết lòng ngưỡng mộ. Tiền bối có một tủ sách, hai bên cửa được cẩn chân dung hai chí sĩ họ Phan. Tủ ấy nay vẫn còn ở nhà con gái (hiền tỷ Cao Bạch Liên).
([9]) Hội Nhân Quyền thành lập tháng 02-1898 có mục đích bảo vệ những nguyên tắc về tự do, bình đẳng và công lý. Hội này đã vận động để nhà cách mạng Phan Châu Trinh được trả tự do (1910).
([10]) Hội Tam Điểm là hiệp hội quốc tế, không phải hội kín, chỉ dành riêng một số người, xây dựng tình huynh đệ và đoàn kết. Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập Hội Tam Điểm (14-6-1922).
([11]) Năm 1924 từ Phú Quốc trở về Sài Gòn, tiền bối Ngô Văn Chiêu (1878-1932) ở trọ tại khách sạn Bá Huê Lầu 百花樓, sau đó đổi chỗ trọ nhiều lần.
([12]) Maurice Cognacq (1870-1949) làm thống đốc ở Nam Kỳ, nhiệm kỳ 1921-1926.
([13]) Bazin chính là kẻ đã ra lệnh đàn áp cuộc biểu tình của học sinh trường Petrus Ký, bắn chết trò Trần Văn Ơn… Ty Công An Sài Gòn (kháng chiến) giao cho tổ năm người (La Văn Liếm tức Bảy Liếm, Trịnh Khắc Phương tức Tư Sơn, Trần Ngọc Phú, Võ Thế Lung và Nguyễn Văn Vinh) nghiên cứu kế hoạch ám sát Bazin. Tư Sơn chọn đội cảm tử 16B gồm ba người là Đình (bí số A16), Tâm (B16) và Danh (C16, người Bình Đăng, Chợ Lớn) thi hành. Bazin ngụ ở số 213 Catinat (nay là Đồng Khởi, quận 1), nhà trông sang vườn hoa. Mỗi sáng sớm Bazin thường đi bộ một quãng từ Catinat rồi quẹo vào Espagne (nay là Lê Thánh Tôn, quận 1), đến gần cửa Tòa Thị Chính mới lên xe hơi đã chờ sẵn. Khoảng 6 giờ 30 sáng ngày 28-4-1950, Bazin ra khỏi nhà, cặp tay bạn là đại úy không quân Roger bước về hướng Tòa Thị Chính. Danh đã dùng súng Remington bắn chết Bazin, với năm viên đạn găm vào ngực. (http://nld.com.vn)
([14]) Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de Cochinchine), đại diện Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Gò Công, Tây Ninh. Hội Đồng thành lập năm 1880, dưới thời Thống Đốc Le Myre de Vilers, có nhiệm vụ thảo luận ngân sách địa phương. Lúc đầu hội viên gồm có mười người Pháp, sáu Việt. Sau tăng lên mười bốn Pháp, mười Việt. Hội viên người Việt do đại diện các hương chức Nam Kỳ bầu.
([15]) Thánh thất Thái Dương Minh bị hủy hoại trong chiến tranh. Năm 1972 cất mới tại ấp Thạnh An 3, xã Thạnh Thới Thuận, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.
([16]) Thánh thất Ngọc Minh thuộc Hội Thánh Minh Chơn Đạo, về sau trở thành Tòa Thánh Ngọc Minh.
([17]) Quý IV-2008, thông qua Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo (tại thánh thất Bàu Sen, quận 5), hiền tỷ Cao Bạch Liên (ái nữ của tiền bối Cao Triều Phát) đã tái bản Lễ Bổn, với phần san nhuận của Huệ Khải và Lê Anh Minh, dày 256 trang 14,5x20,5cm, ấn tống một ngàn bản (nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội). Sang quý IV-2009, sách được sửa chữa và ấn tống sáu ngàn bản (nhà xuất bản Tôn Giáo), do các Mạnh Thường Quân trong Tam Kỳ Phổ Độ công quả tài trợ.
([18]) René Veber (1888-1972) làm thống đốc ở Nam Kỳ, nhiệm kỳ 1939-1940.
([19]) Ernest Thimothée Hoeffel (1900-1952) là thống đốc người Pháp cuối cùng ở Nam Kỳ, nhiệm kỳ 1942-1945.
([20]) Chủ Nhật 01-10-1967 (28-8 Đinh Mùi), giờ Ngọ, tại Diêu Trì Bửu Điện (thánh thất Bình Hòa), Đức Cao Triều Phát giáng cơ nhắc lại với thanh thiếu niên Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý: “… Anh đã làm những gì những năm xưa nơi miền Giồng Bốm. Nhưng than ôi! Sức người có hạn, cường lực lại vô biên, Anh đành chịu thúc thủ trước thế cuộc trong lúc bấy giờ.”
([21]) Là loại cây hoang dã rất thích nghi đất nhiễm phèn nặng như Đồng Tháp Mười, đưng hao hao giống như lác, nhưng lá to và cao hơn, bẹ ốp lại thành thân và mọc thẳng đứng. Cũng như cọng bàng, cây tranh, đưng dùng để lợp nhà. Mùa khô đưng già đi, bẹ có màu đỏ thẫm, là lúc có thể cắt mang về dùng. Cắt đưng phải dùng liềm thật bén, xả cho nó nằm xuống đất, sau đó nắm ngọn giũ, lựa những cọng cao nhất bó lại. Cọng đưng trải ra sân phơi vài nắng cho khô, rồi chẻ hom tre bện đưng thành tấm, dài khoảng một mét hai đến một mét rưỡi để lợp nhà. Từ lúc cắt đưng ở rừng, chọn tre già chẻ hom, khâu bện (gọi là đánh đưng) tốn nhiều công và thời gian. Vì thế muốn lợp nhà cần chuẩn bị trước vài ba tháng. Nhà lợp bằng đưng ở mát, nhưng dễ bén lửa. (http://www.tanphuoc.vn)
([22]) Năm 1956 (sau khi tiền bối Cao Triều Phát quy thiên), Bảo Tàng Cách Mạng xin gia đình chiếc áo để làm hiện vật lịch sử.
([23]) Tuy đã đổi tên, ngày 06-02-1955 (14-01 Ất Mùi), với cương vị là Anh Cả chưởng quản Cửu Trùng Đài của Hội Thánh Duy Nhứt Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, khi ban hành đạo lịnh số 02 tại Hà Nội, tiền bối Cao Triều Phát vẫn nhắc lại danh xưng Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai Phái Hợp [Hiệp] Nhất.
([24]) Lê Đình Thám (1887-1969) là cư sĩ Phật Giáo, bác sĩ tây y; sáng lập viên và là hội trưởng Hội Phật Học Trung Kỳ (tức là An Nam Phật Học Hội), trụ sở đặt tại chùa Trúc Lâm (Huế); chủ nhiệm kiêm chủ bút nguyệt san Viên Âm của Hội Phật Học Trung Kỳ.
([25]) Năm 1694, vua Khang Hy nhà Thanh xây cung điện cho hoàng tử thứ tư. Sau hoàng tử này lên ngôi, hiệu là Ung Chính (trị vì 1723-1735), giữ lại một nửa cung điện cũ để làm hành cung, một nửa làm tăng viện. Hành cung bị cháy, còn sót tăng viện, sau đổi tên là Ung Hòa Cung (1725), trở thành chùa Lạt Ma Giáo (1744), dài 480 thước, rộng khoảng 120 thước. Lạt Ma Giáo (Lamaism) là cách phương Tây gọi Phật Giáo Tây Tạng (thuộc ngành đại thừa). Các vị cao tăng của Phật Giáo Tây Tạng được gọi là lamas, chữ Hán phiên âm là lạt ma .
([26]) Tài liệu lưu trữ tại thánh thất Hà Nội, do tiền bối Tô Văn Pho cung cấp.
([27]) Một năm trước, ngày 30-8-1966 (15-7 Bính Ngọ), tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch thành lập một tập thể mang danh hiệu Thanh Thiếu Niên Phổ Thông Giáo Lý.




 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.

Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.