Thứ Sáu, 9 tháng 9, 2016

91/4. THƯỢNG PHỐI SƯ PHÙNG VĂN THỚI RA BẮC / Lịch Sử Thánh Thất Cao Đài Thủ Đô Hà Nội


THƯỢNG PHỐI SƯ PHÙNG VĂN THỚI

RA BẮC (1942-1948)


Phùng Văn Thới (1903-1968)
Tiền bối Phùng Văn Thới sinh tháng 4-1903 (tháng 3 Quý Mão) tại làng Thanh Sơn, quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho. Tiền bối thứ bảy và là con trai duy nhất. Song thân là ông Phùng Văn Thọ (1848-1929) và bà Nguyễn Thị Út (1850-1905). Ông Thọ không theo nghiệp đông y của cha (Phùng Văn Trực) mà làm hương chức trong làng hơn ba mươi năm. Khi các con đều thành gia thất, ông Thọ nghỉ việc làng, chỉ giữ chân kế bái lo việc cúng đình.
Tiền bối Phùng Văn Thới sớm mồ côi mẹ, cha tục huyền với bà Nguyễn Thị Long (1847-1936). Năm 1911 (Tân Hợi), tiền bối học chữ Nho với hương hào Mên, người ấp Hòa Sơn, làng Thanh Sơn. Học xong lớp Nhất, tiền bối làm thầy giáo làng, dạy ở Trà Tân và Phú Túc. Năm 1922 (Nhâm Tuất), tiền bối kết hôn với cô Phan Thị Phó tự là Giác (1904-1935), con đại điền chủ Phan Văn Cậy, và sống bên vợ, dạy học. Bà Thới người xã Hữu Đạo, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, rất có hiếu với cha chồng. Khi ông Thọ bị bệnh yết hầu (1927), bà về bên nhà chồng tận tụy săn sóc cho đến lúc ông Thọ tạ thế (1929). Tiền bối Phùng Văn Thới chỉ có một gái duy nhất là Phùng Thị Mộc Trầm (1923-1999), sinh tại xã Hữu Đạo.
Khi hai tiền khai Lê Văn Trung và Nguyễn Ngọc Tương về quận Cai Lậy lập đàn cơ phổ độ (1927), tiền bối Phùng Văn Thới nhập môn và độ được nhạc phụ vào đạo Cao Đài, rồi hiệp cùng nhạc phụ lập thánh thất Hữu Đạo.
Thứ Tư 13-7-1927 (15-6 Đinh Mão), tại đàn Cây Mai (Chợ Lớn) với song đồng là hai tiền khai Nguyễn Trung Hậu (1892-1961) và Trương Hữu Đức (1890-1976), Đức Lý Thái Bạch phong tiền bối Phùng Văn Thới làm Lễ Sanh.
Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh cử tiền bối Phùng Văn Thới làm Đầu Quận Đạo hai quận Cai Lậy và Vĩnh Kim, cai quản thánh thất Hữu Đạo. Tiền bối phụ giúp nhạc gia là Thái Giáo Sư Đầu Tỉnh Đạo Phan Văn Cậy quản trị đạo sự ba tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên và đảo Phú Quốc trong khoảng bảy năm.
Tháng 02-1935 (tháng 01 Ất Hợi), sau Hội Vạn Linh,([1]) tiền bối Phùng Văn Thới về thánh thất An Hội (Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo), được cử làm Đầu Tỉnh Đạo Châu Đốc.
Thứ Năm 28-5-1936 (08-4 Bính Tý), tiền bối thăng Giáo Hữu phái Thượng.
Thứ Tư 17-11-1937 (15-10 Đinh Sửu), tiền bối nhận chức Nội Viện Trưởng lần thứ nhất.
Thứ Năm 01-9-1938 (08-7 Mậu Dần), tiền bối thăng Giáo Sư phái Thượng.
Chủ Nhật 02-10-1938 (09-8 Mậu Dần), tiền bối nhận chức Ngoại Viện Trưởng lần thứ nhất, ra Trung Kỳ hành đạo, văn phòng ở tỉnh Quảng Ngãi.
Thứ Hai 10-4-1939 (21-02 Kỷ Mão), tiền bối ra Trung Kỳ lần thứ hai, đi các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, Hà Tĩnh, Nghệ An...
Thứ Bảy 23-3-1940 (15-02 Canh Thìn), tiền bối nhận chức Nội Viện Trưởng lần thứ nhì. Cuối tháng 4-1940 (trung tuần tháng 3 Canh Thìn) tiền bối thăng Phối Sư phái Thượng.
Giai đoạn 1940-1941 tiền bối hành đạo tại Tòa Thánh An Hội (Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo).
Thứ Ba 31-3-1942 (15-02 Nhâm Ngọ), Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới nhận chức Ngoại Viện Trưởng lần thứ nhì, được Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo cử ra Bắc sau khi ba vị Nguyễn Văn Cui, Huỳnh Minh Chư và Tô Văn Pho đã tùng lịnh Hội Thánh rời Hà Nội trở về Nam.
Thánh thất ở số 34 phố Dumoutier (1943)
Lúc mới ra Hà Nội, Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới ngụ tại nhà ông Hoàng Đức Hữu, số 25 phố Hàn Thuyên (nay thuộc quận Hai Bà Trưng). Năm 1943 (Quý Mùi), được Hội Thánh cấp số tiền một ngàn đồng Đông Dương,([2]) tiền bối mua nhà ở số 34 phố Dumoutier, tức phố Chùa Vua,([3]) và dời thánh thất từ phố Hàn Thuyên về đấy.
Thánh thất ở số 96-98 phố Duvigneau
Về phố Dumoutier khoảng tám tháng thì nơi này phải giải tỏa để chỉnh trang đô thị. Với số tiền được bồi thường, tiền bối Phùng Văn Thới mua hai căn nhà số 96-98 phố Duvigneau để làm thánh thất. Phố này sau đổi tên là Nguyễn Thị Minh Khai, lại đổi là Bùi Thị Xuân, quận Hai Bà Trưng.
Lúc này, bên cạnh tiền bối đã có con gái là Mộc Trầm (còn gọi là Thanh), được đón ra Hà Nội vào năm 1943 sau khi mua xong nhà số 34 phố Dumoutier. Là người đảm đang, cô Mộc Trầm hàng ngày ra chợ bán chuối chiên, phụ giúp cho tiền bối chút ít trong sinh hoạt đắt đỏ hàng ngày do ảnh hưởng Chiến Tranh Thế Giới thứ Hai (1939-1945), phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, hàng hóa khan hiếm.
Hà Nội 1946
Hiệp định sơ bộ ký ngày 06-3-1946 tại Hà Nội làm cơ sở chính thức cho việc đàm phán giữa hai bên Việt-Pháp, nhưng thực dân Pháp vẫn tiếp tục khiêu khích với mức độ ngày càng tăng, nhất là từ tháng 4-1946.
Tạm ước 14-9-1946 được ký giữa hai bên Việt-Pháp, nhưng tình hình vẫn tiếp tục nóng hơn, báo hiệu chiến sự sắp bùng nổ.
Thư Chủ Tịch Quốc Hội Tôn Đức Thắng
Thứ Năm 07-11-1946, công văn số 30QH của Toàn Quốc Đại Biểu Đại Hội, Chủ Tịch Quốc Hội Tôn Đức Thắng gi Phối Sư Phùng Văn Thới nội dung như sau:
Kính gửi: Phối Sư Phùng Văn Thới
kiêm Ngoại Viện Trưởng đạo Cao Đài Bắc Bộ
thánh thất Hà Nội
Thưa Phối Sư,
Kính phúc thư số 16 ngày 04-10-1946 của Phối Sư yêu cầu Quốc Hội nhìn nhận đạo Cao Đài là chính thức, chúng tôi xin có mấy lời trân trọng để Phối Sư biết rằng:
1. Quốc Hội rất hoan nghênh tinh thần ái quốc của đạo Cao Đài.
2. Quốc Hội trong phiên họp gần đây đã thông qua Điều thứ 10 trong bản dự án Hiến Pháp Việt Nam,([4]) trong đó có quyền tự do tín ngưỡng của công dân được công nhận.
Như thế là đạo Cao Đài được tự do hoạt động như các đạo khác.
Nay kính,
Tôn Đức Thắng
(Chữ ký + con dấu)
Hồ Chủ Tịch đến thánh thất Hà Nội
Thứ Sáu 08-11-1946 (15-10 Bính Tuất), nhân kỷ niệm Khai Đạo, Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới thiết lễ cầu siêu cho các anh hùng liệt sĩ. Dịp này Hồ Chủ Tịch đến thánh thất Hà Nội ở phố Duvigneau dự lễ.([5])
Tản cư
Đầu tháng 12-1946 quân Pháp bắt đầu khiêu chiến. Đêm Thứ Năm 19-12, cúp điện Hà Nội lúc 10 giờ để làm hiệu lệnh nổ súng tấn công quân Pháp. Thứ Sáu 20-12 ban lệnh toàn quốc kháng chiến. Thị dân Hà Nội bắt đầu tản cư.([6])

Đặng Giang

Theo làn sóng tản cư rời Hà Nội, Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới về làng Đặng Giang (phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông), tạm trú tại nhà thầy giáo Đặng Văn Khanh (đã nhập môn tại thánh thất Hà Nội ở phố Duvigneau).
Chiến tranh lan về tới Đặng Giang. Trong một trận càn, quân Pháp bắt tiền bối Khanh tra tấn dã man, xác thả trôi sông. Sau này Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo truy phong tiền bối Đặng Văn Khanh phẩm Lễ Sanh.
Cách làng Đặng Giang một con sông là làng Trinh Tiết (phủ Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông) có nhà ông hương Mã, dùng làm nơi liên lạc của tín đồ Cao Đài. Vợ ông hương Mã là bà Lê Thị Quy, nhập môn theo Cao Đài Tây Ninh, làm Lễ Sanh.
Khi tản cư, tiền bối Phùng Văn Thới đem theo con gái là Mộc Trầm và một thanh niên là Trần Luyện, còn gọi Trần Quốc Luyện.

Trần Luyện (1920-1994)

Thứ Ba 23-3-1920 (04-02 Canh Thân), tiền bối Trần Luyện sinh giờ Ngọ, tại làng Tư Phú Đông, tổng Đa Hòa, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.([7]) Thân phụ là Trần Hữu Lang (1885-1934), tự Trần Phú Thỏa, tục gọi Đội Lang, nguyên là quản đội võ công đô úy tỉnh Bình Định. Thân mẫu là Trần Thị Kiệt (1884-1946), người làng Thanh Châu, phủ Duy Xuyên.
Vì cha phải thuyên chuyển do công vụ, thuở nhỏ tiền bối Trần Luyện được đi nhiều nơi. Tiền bối học các trường huyện Bình Khê, Phù Cát, Bồng Sơn (1929-1932). Học trung học ở tỉnh Quy Nhơn (1933-1935), được nửa năm đệ Nhị niên thì tiền bối bỏ học, ham mê phù phép thần bí, theo bạn bè đi khắp chốn núi non, từ Trung Kỳ vào đến cả Đà Lạt, Biên Hòa, Sài Gòn, Chợ Lớn.
Năm 1935 (Ất Hợi), tiền bối theo mẹ về quê, được gặp tiền bối Bạch Hổ (Trần Quang Châu, 1915-1998) là một trong những nhân vật nòng cốt khai mở nền Đạo ở Trung Kỳ.
Năm 1936 (Bính Tý), tiền bối Trần Luyện nhập môn tại thánh tịnh Thanh Quang,([8]) hăng say tu học, hành đạo, theo chân các bậc đàn anh ở Quảng Nam như các tiền bối Nguyễn Quang Châu (1912-1955), Huỳnh Ngọc Trác (1898-1945)...
Năm 1936 (Bính Tý), hai tiền bối Huỳnh Ngọc Trác và Trần Nguyên Chất (1893-1950) gởi tiền bối Trần Nguyên Chí (1914-1957) ra Hà Nội học với cư sĩ Thiều Chửu.([9]) Còn tiền bối Trần Luyện được gởi ra Huế học tiếp trung học. Tiền bối Trần Luyện trọ tại Gia Hội, học trường Phú Xuân (1937-1939), dạy kèm tư gia. Mùa hè, tiền bối về Quảng Nam hăng say hành đạo cùng các đàn anh ở thánh tịnh Thanh Quang.
Tháng 9-1940, hai tiền bối Huỳnh Ngọc Trác và Trần Nguyên Chất gởi thêm tiền bối Trần Luyện ra Hà Nội học chữ Hán và giáo lý nhà Phật với cư sĩ Thiều Chửu. Hai thanh niên Trần Nguyên Chí, Trần Luyện vừa học với cư sĩ Thiều Chửu, vừa giúp việc sửa bản in cho nhà in Đuốc Tuệ đặt tại chùa Quán Sứ,([10]) cũng là trụ sở Hội Phật Học Bắc Kỳ.
Tháng 01-1946, tiền bối Trần Luyện theo hai tiền bối Thanh Long Lương Vĩnh Thuật (1918-1982) và Huỳnh Thanh (1921-1985) ra Hà Nội để gặp Bộ Trưởng Bộ Tuyên Truyền Trần Huy Liệu (1901-1969) và Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947). Mục đích là tìm cách giải quyết các biện pháp sai trái mà chính quyền địa phương đang thi hành khiến cho tín đồ Cao Đài mấy tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên phải chịu ách nạn.
Sau cuộc tiếp xúc này, lập trường đạo Cao Đài được đăng trên báo Cứu Quốc. Công văn số 30QH, ngày 07-11-1946, của Chủ Tịch Quốc Hội Tôn Đức Thắng gi Phối Sư Phùng Văn Thới cũng là hệ quả của sự kiện đoàn hướng đạo miền Trung ra Hà Nội, tiếp xúc với Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới, rồi cùng với Phối Sư khiếu nại với hai Bộ Trưởng Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng.
Ở lại thánh thất Hà Nội số 96-98 phố Duvigneau, tiền bối Trần Luyện cùng với thánh thất ở phố Hàng Than (rue du Charbon) thuộc Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh lập ra Cơ Quan Truyền Giáo Cao Đài Trung Bắc Việt Nam.
Tháng 7-1946 (tháng 6 Bính Tuất), tiền bối Trần Luyện cùng Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới tham gia ban liên lạc tôn giáo gồm Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành và Cao Đài. Chủ tịch là sư Thích Đại Nguyên, trụ trì chùa Bà Đá,([11]) nên trụ sở của ban liên lạc cũng đặt nơi chùa này. Phó chủ tịch là Linh Mục Trần Đình Nam, Tổng thư ký là Trần Luyện. Các ủy viên có Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới, Linh Mục Hồ Văn Vui, cùng hai Mục Sư Tin Lành là Âu Đăng Trình và Lê Văn Hưu…
Tiền bối Trần Luyện đã hứa hôn với cô Mộc Trầm (1946) nên đi theo Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới tản cư về làng Đặng Giang, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông.
Tại Đặng Giang, Thượng Phối Sư Thới tham gia phong trào bình dân học vụ, mở được bốn lớp và tiền bối Trần Luyện góp phần giảng dạy.
Thánh thất Hà Nội dời về phố Hòa Mã (1948)
Thứ Hai 10-11-1947, theo làn sóng người hồi cư ngày càng đông, các tiền bối Phùng Văn Thới, Trần Luyện và cô Mộc Trầm rời làng Đặng Giang trở về Hà Nội. Cuộc kháng chiến chưa kết thúc nhưng lúc ấy đã có người hồi cư. Năm 1948 dân ngoại thành trở về gần hết, nội thành có mười lăm vạn dân.([12])
Nhà số 96-98 phố Duvigneau trải qua cuộc chiến đã hư hỏng. Bấy giờ phố Hòa Mã, tức Amiral Sénes,([13]) có một biệt thự nguyên là trụ sở Hội Ái Hữu của các cựu công chức bưu điện Hà Nội. Hội này tan rã (1945), biệt thự bị bỏ phế trong những năm chiến tranh. Tòa Thị Chính Hà Nội cho Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới thuê lại với giá năm mươi đồng một tháng.
Lúc dời thánh thất về phố Hòa Mã, biệt thự còn là ngôi nhà gạch, không có lầu. Diện tích toàn bộ mặt bằng hơn 400m2, trong đó khoảng 60m2 dành làm bửu điện.
Thánh thất mới ở phố Hòa Mã lạc thành năm 1948 (Mậu Tý), lúc này báo Vì Dân có mời Thượng Phối Sư Thới làm Hội Trưởng Ban Cứu Tế Xã Hội.
Khi dọn về phố Hòa Mã tiền bối Phùng Văn Thới còn giữ được Thiên Nhãn, Thiên Bàn, quả chuông đồng. Thiên Nhãn này do ba vị tiền bối Nguyễn Văn Cui, Huỳnh Minh Chư và Tô Văn Pho thỉnh từ Tòa Thánh An Hội ra (1939).([14])
Lần hồi bổn đạo quy tụ lại thánh thất mới ở phố Hòa Mã. Ngoài Thượng Phối Sư Thới, phái nam có thể kể đến: Ngọc Giáo Hữu Hoàng Đức Hữu (thầu khoán); Thái Giáo Hữu Lê Văn Thung (đầu bếp riêng gia đình ông Lê Cửu); Thượng Lễ Sanh Trần Văn Hợi (thợ mộc). Phái nữ có: Giáo Sư Vương Thị Tống; Giáo Hữu Nguyễn Nguyệt Tiếp. Tín đồ: Hoàng Đức Hài,([15]) Trần Văn Vy, v.v...
Về Nam
Thượng Phối Sư Phùng Văn Thới rời miền Nam năm 1942. Năm sau con gái là Mộc Trầm cũng ra Hà Nội, kế thất Lê Thị Đáo (1909-1962) và hai con trai có với bà Đáo là Phùng Ngọc Ẩn (sinh 1934) và Phùng Quang Lộc (sinh 1937) vẫn còn ở quê.
Bặt tin vợ con đã lâu, nên dù chưa được Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo cho phép trở về, tiền bối vẫn đi máy bay dân sự của hãng Air France đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất khoảng năm giờ chiều Chủ Nhật 02-5-1948 (24-3 Mậu Tý).
Vì không có tiền về quê, trước lúc rời Hà Nội tiền bối Phùng Văn Thới phải mượn ba ngàn đồng của bà Le Roi là người Việt có chồng Pháp, nhà số 5 phố Hàng Chuối (rue Général Beylié), và đã thế chấp hai căn nhà 96-98 phố Duvigneau.
Khi hồi cư tiền bối Trần Luyện và cô Mộc Trầm lập hôn thú tại Tòa Thị Chính Hà Nội (Thứ Bảy 24-4-1948). Vài tháng sau, hai vợ chồng tìm cách trả dứt tiền bà Le Roi, thu hồi giấy chủ quyền nhà đứng tên Phùng Văn Thới rồi gởi vào Nam.
Năm 1949 (Kỷ Sửu), bà Mộc Trầm cũng về Nam. Tiền bối Trần Luyện còn ở lại Hà Nội đến tháng 6-1952 (Nhâm Thìn) mới vào Sài Gòn.
Việc tiền bối Phùng Văn Thới bỏ thánh thất Hà Nội đi tản cư (1946), thêm mấy lần đổi nhà, rồi bỏ thánh thất hồi hương không đợi lịnh Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo, tất cả đã tạo ra một dư luận không có lợi cho tiền bối khi về đến Bến Tre. Có lẽ tiền khai Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương còn đang trong thời gian biệt cư đại tịnh nên tiền bối Phùng Văn Thới không có điều kiện trực tiếp giải trình với vị chưởng quản cao nhất của Hội Thánh.
Đã thế, gia sự còn rối rắm vì kế thất sang ngang, hai con trai bơ vơ đành phiêu bạt, may mà sau cùng cha con được đoàn tụ. Trong nỗi phiền muộn và thất vọng, bị mất lòng tin ở đồng đạo, tiền bối Phùng Văn Thới lui về quê nhà (quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho). Từ đó, tiền bối không trở ra Hà Nội mà cũng chẳng làm việc cho Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo nữa.([16])

HUỆ KHẢI



([1]) Hội Vạn Linh diễn ra từ Thứ Hai 11 đến Thứ Năm 14-02-1935 (08 đến 11-01 Ất Hợi) tại thánh thất An Hội (Bến Tre), có 88 họ đạo trong 20 tỉnh tham dự, với hai mục đích: (a) Chọn trong hàng Chưởng Pháp hay Đầu Sư một vị để cầm giềng mối Đạo; (b) Quyết định việc trở về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo. Tiền khai Thượng Đầu Sư Nguyễn Ngọc Tương được công cử làm Giáo Tông. Hội Vạn Linh công cử ba vị Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang, Thượng Sanh Cao Hoài Sang, và Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu về Tòa Thánh Tây Ninh thương nghị việc hòa hiệp, nhưng không đạt được kết quả.
([2]) Năm 1943 ở Hà Nội, giá gạo chánh thức là ba mươi mốt đồng một tạ, giá chợ đen là năm mươi bảy đồng một tạ; giá vải nhập chánh thức là hai đồng một mét, giá chợ đen là mười đồng một mét. (Theo: Lịch Sử Thủ Đô Hà Nội. Nxb Sử Học, 1960.)
([3]) Chùa Vua (Thiên Đế Điện 天帝殿) sau này nằm ở khu thương mại sầm uất, một chợ trời tại góc phố Thịnh Yên (tên cũ là Dumoutier), thuộc phường Phố Huế, quận Hai Bà Trưng.
([4]) Quốc Hội Khóa I (1946-1960) thông qua Hiến Pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 09-11-1946.
([5]) Thứ Ba 05-12-2006 (15-10 Bính Tuất), thánh thất Hà Nội tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm sáu mươi năm sự kiện này.
([6]) [Hà Nội 1984: 142-154]
([7]) Tiền bối quy thiên Thứ Năm 08-9-1994 (03-8 Giáp Tuất).
([8]) Nay ở đội 9, thôn Phong Thử 3, làng Kỳ Bắc, xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
([9]) Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (1902-1954) người làng Trung Tự, phường Đông Tác, nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Cha là cử nhân Nguyễn Hữu Cầu, một nhà Nho thanh bạch bị Pháp đày Côn Đảo vì tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.
Ông Nguyễn Hữu Kha được bà nội và bác ruột dạy chữ Hán từ bé, rồi tự học mà biết thêm tiếng Anh, Pháp, Nhật. Hội Phật Học Bắc Kỳ thành lập (1934); ông quản lý và biên tập cho báo Đuốc Tuệ của Hội. Ông tham gia Hội Truyền Bá Quốc Ngữ (1937-1938). Khi trường Phật Học Phổ Quang ra đời (1941), ông dạy chữ Hán, giảng kinh và chủ trì các khóa lễ. Ông cùng một số tăng ni và trẻ mồ côi theo kháng chiến (1946).
Bị án oan trong cải tạo ruộng đất (1954), Thứ Năm 15-7-1954 (16-6 Giáp Ngọ), sau khi để lại thư tuyệt mạng, ông ra bờ sông (xóm Đồng Tâm, xã Vạn Thắng, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên) thắp hương lạy bốn phương, rồi gieo mình xuống dòng nước chảy xiết.
Ngoài Hán-Việt Tự Điển (Hà Nội: nhà in Đuốc Tuệ, số 73 Richaud, 1942), ông dịch nhiều kinh Phật: Di Đà, Di Giáo, Dược Sư, Địa Tạng, Khóa Hư Lục, Kim Cương, Kinh Lễ Sáu Phương, Lục Tổ Đàn Kinh, Pháp Hoa, Phổ Môn, Thủy Sám, Tứ Thập Nhị Chương Kinh, Viên Giác. Các sách khác: Cải Tà Quy Chính, Con Đường Phật Học Thế Kỷ 20, Khóa Tụng Hàng Ngày, Nhòm Qua Cửa Phật, Phật Học Cương Yếu, Sự Tích Phật Tổ Diễn Ca, Tây Du Ký, Vì Sao Tôi Tin Phật Giáo.
([10]) Đầu đời Hậu Lê, thế kỷ 15, ở thôn An Tập, huyện Thọ Xương có khu nhà Quán Sứ dùng tiếp đón sứ thần lân bang khi họ đến Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Vì phần lớn sứ thần và tùy tùng theo đạo Phật, nên triều đình Việt Nam cho dựng chùa bên cạnh khu nhà Quán Sứ để họ tiện hành lễ. Về sau khu nhà này không còn, chỉ sót lại chùa Quán Sứ. Năm 1942 chùa được xây cất quy mô như hiện nay. Phố Richaud đổi tên là phố Quán Sứ. Sau này chùa là cơ sở đào tạo bậc cao đẳng Phật Học cho tăng ni miền Bắc. [Hà Nội Tự Điển 1990: 127-128]
([11]) Chùa Bà Đá thuộc dòng thiền Lâm Tế, xuất phát từ Trung Quốc. Tên chính thức là Linh Quang Tự. Đời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), dân làng Báo Thiên đào được ở khu vực này tượng đá Phật Bà Quan Âm, bèn lập miếu thờ, sau thành chùa. Trong một trận hỏa hoạn thời Pháp thuộc, tượng Phật đá bị đánh cắp. Tượng đá Phật Thích Ca hiện nay mới tạo khoảng đầu thế kỷ 20. Làng Báo Thiên xưa nằm ở khu vực quanh nhà thờ lớn ngày nay, cách hồ Hoàn Kiếm không xa. Chùa Bà Đá nay ở số 3 phố Nhà Thờ. [Hà Nội Tự Điển 1990: 117]
([12]) [Hà Nội 1984: 163]
([13]) Hòa Mã (hay Đổi Mã) nguyên là một thôn thuộc huyện Thọ Xương. Nơi đây có Thiên Quang Tự là chỗ vua đến thay áo trước khi vào tế đàn Nam Giao (đàn ở vị trí nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo sau này). [Hà Nội Tự Điển: 27-28]
([14]) Tháng 01-1976, tiền bối Tô Văn Pho vào Nam, thỉnh Thiên Nhãn mới tại thánh thất Đô Thành (414/30 Hậu Giang, phường 12, quận 6). Thánh thất này thuộc Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo.
([15]) Là con ông Hoàng Đức Hữu, năm ấy ông Hài khoảng ba mươi tuổi, nhiệt tâm hành đạo. Khi tiền bối Tô Văn Pho ra Hà Nội lần thứ ba (1949, Kỷ Sửu), ông Hài được phong Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài, ông Hữu làm Đầu Họ Đạo. Thứ Sáu 15-7-1949 (20-6 Kỷ Sửu) Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo ngưng chức hai cha con ông Hữu và Hài vì cả hai phạm lỗi làm tổn hại danh thể đạo Cao Đài.
([16]) Những chi tiết về Phùng tiền bối căn cứ theo bản gia phả chép tay, viết dở dang. Năm 1993, tôi được tiền bối Trần Luyện cho phép đọc tại nhà riêng của tiền bối ở đường Đinh Tiên Hoàng, phường Đa Kao, quận 1. (Huệ Khải)


 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.