THƯỢNG GIÁO HỮU TÔ VĂN PHO
TRỞ RA HÀ NỘI (1949)
Tháng 5-1948 Thượng Phối Sư Thới về luôn trong Nam. Bảy tháng sau, Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo phái tiền bối Tô Văn Pho ra thay. Chuyến đi này như một Thiên mệnh đã biến người con xứ dừa Bến Tre mộc mạc trở thành cư dân đất Hà Thành văn vật, cũng như đã gắn liền cuộc đời tiền bối với bao thăng trầm của thánh thất Hà Nội, của cơ Đạo miền Bắc mà trải qua bao cơn binh lửa điêu linh tàn khốc, bậc chân tu vóc dáng hơi nhỏ thấp ấy nhưng mang đại chí hy sinh đã vững vàng trụ lại giữa lòng Hà Nội tan tác đạn bom, cùng dấn thân với thị dân ba mươi sáu phố phường, sống hòa đời hợp đạo để bằng nghị lực và sáng suốt, giữ gìn và phát triển thánh thất Hà Nội cho đến ngày đất nước hai miền nối liền một dải.
Chuẩn
bị trở lại Hà Nội
Những ngày cuối năm 1948 (Mậu Tý), Hội Thánh Cao Đài Ban
Chỉnh Đạo chuẩn bị một số điều kiện để tiền bối Tô
Văn Pho trở lại đất Bắc hợp với quyền pháp.
- Thứ Năm 18-11-1948 (18-11 Mậu Tý), đạo lịnh chung cho Văn
Phòng Cửu Viện (số 32) và Văn Phòng Tổng Lý Nội-Lễ-Hòa (số 26), do Chánh Phối
Sư Ngọc Đối Thanh thay mặt Hội Thánh và do Giáo Sư Ngọc Núi Thanh Quản Lý Nội
Viện ký, viết rằng:
Vâng lệnh Đức Lý Giáo
Tông ([1]) và chấp nhận lời xin của họ đạo Hà Nội, Hội Thánh phái em thanh đồng Tô
Văn Pho sanh ngày 18 Août 1920 ([2]) đến Hà Thành giúp chức sắc Hiệp Thiên Đài
và Cửu Trùng Đài lo chấn chỉnh và nâng đỡ đức tin họ đạo Hà Nội và các vùng kế
cận, nhứt là lo sắp đặt sự thờ phượng cúng kính và dạy tập lễ đồng nhi, y theo
nghi tiết đương thi hành nơi thánh
thất An Hội Bến Tre.
Phải siêng năng sốt sắng
lo làm cho tròn phận sự mà lập thêm công quả.
Lên
tàu ra Hải Phòng
Thứ Bảy 01-01-1949 (03-12 Mậu Tý), tiền bối Tô Văn Pho một
mình lên tàu thủy để ra cảng Hải Phòng. Năm ngày sau, tàu cập bến vào buổi
sáng. Rời Hải Phòng, tiền bối đặt chân đến thánh thất Hà Nội số 48 phố Hòa Mã
đúng lúc nơi đây đang cúng thời Ngọ.
Tại Hà Nội, công việc đầu tiên của tiền bối Tô Văn Pho là đi
thăm bổn đạo, củng cố lại tinh thần hành đạo của mọi người, duy trì sinh hoạt
bình thường của một thánh thất.
Vài
văn bản về Thượng Giáo Hữu Tô Văn Pho
Thứ Bảy 25-12-1948 (25-11 Mậu Tý), Hội Thánh Cao Đài Ban
Chỉnh Đạo thăng Thượng Lễ Sanh Tô Văn Pho lên Giáo Hữu. Nhưng đạo lịnh chính
thức mãi đến tháng 4-1949 (tháng 3 Kỷ Sửu) mới ra tới thánh thất Hà Nội.
Sau khi tiền bối Tô Văn Pho đã đến thánh thất Hà Nội, có thêm
một số văn bản khác được gởi ra:
- Thứ Tư 09-3-1949 (10-02 Kỷ Sửu), bằng văn thư số 295, Văn
Phòng Cửu Viện Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo có giấy chứng nhận như sau (năm
đạo thứ 24):
Tiếp theo đạo lịnh số 32
ngày 18-11-24 (18 Décembre 1948) cho thanh đồng Tô Văn Pho 29 tuổi giúp đạo Bắc
Phần, lãnh thêm phận sự: Giúp Giáo Sư Thượng Tụng Thanh Đầu Họ Đạo Bắc Phần
Việt Nam, kể từ ngày ban truyền giấy chứng nhận này.
Phải siêng năng sốt sắng
lo thi hành cho tròn phận sự.
- Thứ Sáu 15-4-1949 (18-3 Kỷ Sửu), đạo lịnh chung cho Văn
Phòng Cửu Viện (số 114) và Văn Phòng Tổng Lý Nội-Lễ-Hòa (số 80) do Chánh Phối
Sư Ngọc Đối Thanh và Giáo Sư Ngọc Núi Thanh ký, viết:
Cho Giáo Hữu Thượng Pho
Thanh lãnh phận sự thay mặt Hội Thánh hiệp với Đầu Họ Đạo Bắc Phần Việt Nam và
Đầu Họ Đạo Hà Nội với chức sắc Hiệp Thiên Đài lo thăm viếng đạo hữu, nâng đỡ
đức tin của mỗi người, phổ độ thêm người vào Đạo và nhắc nhở hết thảy trong
Đạo, chức sắc với đạo hữu từ lớn chí nhỏ, phải lo thi hành luật lệ của Hội
Thánh đã ban hành và sẽ ban hành, nhứt là phải thuộc lòng kinh tứ thời, ngũ
giới cấm, tứ đại điều quy, v.v... Phải thông hiểu thánh ngôn của Thầy và các
Đấng thiêng liêng, những tuyên ngôn của Đức Lý Giáo Tông ([3]) và các châu tri dạy đạo đã ban hành.
Phải để trọn tấc lòng mà
lo thi hành cho tròn phận sự.
- Thứ Ba 19-4-1949 (22-3 Kỷ Sửu), đạo lịnh chung cho Cửu Viện
(số 119) và Tổng Lý Nội-Lễ-Hòa (số 83), do Ngọc Chánh Phối Sư Lê Minh Đối và
Giáo Sư Ngọc Núi Thanh ký:
Vâng mạng lịnh Đức Lý
Giáo Tông số 13 ban ra ngày 11-3 Kỷ Sửu (8 Avril 1949).
Thăng thưởng: Lễ Sanh Tô
Văn Pho 30 tuổi, ở làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre, lên chức Giáo Hữu
phái Thượng kể từ ngày ban truyền đạo lịnh này.
Phải siêng năng sốt sắng
lo hành đạo lập công cho xứng phẩm vị mình.
Phạm Thị Giá (1913-2000)
Mùa xuân năm 1949 thánh thất Hà Nội ở phố Hòa Mã
có thêm một tín đồ mới là bà Phạm Thị Giá, trưởng nữ của học giả Phạm Quỳnh
(1893-1945). Bấy giờ bà Giá đang ngụ tại số 47 phố Lò Sũ.
Sau khi ông Phạm Quỳnh bị sát hại (06-9-1945), bà Phạm Quỳnh,
nhũ danh Lê Thị Vân (1892-1953), cùng mười ba thành viên khác của gia đình được đưa từ Huế ra Hà Nội, ngụ ở số 5
phố Hàng Da, trước đây là tòa soạn Nam Phong (1917-1934), một tạp chí danh tiếng do ông Phạm Quỳnh
đồng sáng lập, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút.
Bà Phạm Quỳnh và các con (trừ Phạm Thị Giá) không theo đạo
Cao Đài nhưng tình thân rất sâu đậm với hai tiền bối Tô Văn Pho, Ngô Thị Bình
và thánh thất Hà Nội suốt mấy mươi năm. Khi bà Phạm Quỳnh tạ thế, lễ tang do
Thái Giáo Hữu Lê Văn Thung và Thượng Giáo Hữu Tô Văn Pho cùng họ đạo Hà Nội chu
toàn trọng thể. Riêng bà Phạm Thị Giá lần lượt là Lễ Sanh, rồi thăng Giáo Sư,
làm thủ quỹ, rồi Quyền Đầu Đạo nữ phái của thánh thất Hà Nội. Tháng 12-2000
(Canh Thìn), Giáo Sư Hương Giá quy thiên ở Bạc Liêu khi đang sống bên cạnh con
gái út.([4])
Nhân sự thánh thất Hà Nội
Chủ
Nhật 25-12-1949 (06-11 Kỷ Sửu)
Ban Đầu Đạo:
Đầu Họ Đạo: Thượng Giáo Sư Lê Tụng.
Phó Đầu Họ Đạo: Thái Giáo Hữu Lê Văn Thung.
Thư Ký Ban Đầu Đạo: Nguyễn Đình Liêu.
Phó Đầu Họ Đạo nữ: Giáo Hữu Nguyễn Nguyệt
Tiếp.
Giúp Đầu Họ Đạo nữ: Lễ Sanh Phạm Thị Giá.
Ban Cai Quản:
Chánh Hội Trưởng: Thượng Giáo Hữu Đính.
Phó Hội Trưởng: Nguyễn Vũ.
Thư Ký Ban Cai Quản: Nguyễn Duy Phú.
Phòng Lễ:
Quản Lý: Thái Giáo Hữu Trần Văn
Đường.
Phó Quản Lý: Thượng Lễ Sanh Trần Văn Hợi.
Giúp Lễ Viện: Tạ Đình Định.
Phòng Thơ:
Quản Lý: Bùi Quang Thanh.
Phó Quản Lý: Bùi Công Độ.
Phó Từ Hàn: Bùi Nguyệt Hạnh.
Phòng Lương:
Quản Lý kiêm Thủ Bổn: Lễ Sanh Phạm Thị Giá.
Phòng Công:
Quản Lý: Trần Văn Phúc.
Phó Quản Lý: Nguyễn Bá Hề, Nguyễn Bá
Phú.
Ban Trị Sự:
Chánh Trị Sự: Trần Văn Phúc, Trần Thị
Ngọc.
Phó Trị Sự: Nguyễn Bá Hề, Lê Thị
Hiền.
Thông Sự: Nguyễn Văn Chiêm, Bùi
Nguyệt Hiện, Phạm Văn Lan.
Ban Hành Thiện: Trần Thị Tỵ, Nguyễn Thị
Vòng.
Ban Phổ Độ: Tô Thị Chi, Nguyễn Thị
Nợi, Nguyễn Thị Loan.([6])
HUỆ KHẢI
([1]) Tức là
tiền khai Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương, theo cách tôn xưng trân trọng của Hội
Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo. Từ đây về sau, các đạo lịnh của Hội Thánh Cao Đài
Ban Chỉnh Đạo được dẫn lại
trong sách này, nếu thấy ghi Đức Lý Giáo
Tông, thì nên hiểu là nói tới Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương.
Từ khi thành lập Hội Thánh, thì
thánh thất An Hội trở thành Tòa Thánh, tuy nhiên trong nhiều văn bản của Hội
Thánh vẫn hay giữ tên gọi ban đầu là thánh thất An Hội. Sau gần hai năm tu tạo,
khi lạc thành Chủ Nhật 16-5-1937 (07-4 Đinh Sửu), trên mặt tiền kiến trúc mới
đã gắn bảng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ / Tòa
Thánh. Làng An Hội xưa có ngôi thánh thất đầu tiên đặt tại nhà tiền bối
Huyện hàm Nguyễn Dư Hoài (1868-1930). Bấy giờ chưa chia chi phái. Sau khi tiền
bối Nguyễn Dư Hoài quy thiên, thánh thất ấy không còn. Khu đất này hiện nay đối
diện nhà thờ Tin Lành, góc Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Huệ, phường 1, thành phố
Bến Tre. Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương cho cất trên đất nhà một thánh thất nhỏ
(cột bằng cây dừa lão, lợp ngói, nền lót gạch tàu), là thánh thất An Hội. Khi
cho tu tạo thánh thất An Hội (1935), đồ từ khí và các thứ được gởi tạm tại nhà
riêng ông Võ Văn Lý (1878-1953) là nhà sàn đối diện nhà tu trung thừa nữ. Nhà
tu nay ở số 189 Trương Định, phường 6, thành phố Bến Tre.
([6]) [Hành
Đạo 2: 20]
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.