GIÁO TÔNG NGUYỄN NGỌC TƯƠNG
Thời kỳ tiềm ẩn của đạo Cao Đài trải từ đầu năm 1920 (cuối
năm Kỷ Mùi) đến Thứ Năm 07-10-1926 (01-9 Bính Dần), là ngày chính thức ghi trên
Tờ Khai Đạo được gởi đến Quyền Thống
Đốc Nam Kỳ Le Fol ([1])
để công khai hóa hoạt động của đạo Cao Đài. Tờ Khai Đạo này đã chính thức xác
lập tư cách pháp nhân của đạo Cao Đài.([2])
Số tín đồ bấy giờ còn ít ỏi, nhưng trước đó một tháng, vào Thứ
Ba 07-9-1926 (01-8 Bính Dần) Đức Cao Đài đã dạy tiền khai Lê Văn Trung (1876-1934)
phải lo lập thánh thất ở Tây Ninh rồi từ đó sẽ phổ độ ra khắp Nam, Trung và cả
Bắc Kỳ.
Thứ Năm 21-10-1926 (15-9 Bính Dần), nửa tháng sau khi có Tờ
Khai Đạo, tại nhà tiền khai Hồ Quang Châu ([3])
và vợ là bà Phan Thị Lân, Đức Cao Đài dạy:
Từ nay nòi giống chẳng
chia ba
Thầy hiệp các con lại một
nhà
Nam Bắc cùng rồi ra ngoại
quốc
Lời dạy ấy chẳng những tiên tri tương lai hoằng đại của nền
đạo mới mà còn thôi thúc, nung chí các bậc tiền khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ sớm
ấp ủ hoài bão đem đạo Cao Đài ra phổ độ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Một trong những vị tiền khai sớm tìm cách thực hiện hoài bão
ấy là tiền khai Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951).
Gia
đình
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương sinh ngày 22-6-1881 (26-5 Tân Tỵ)
tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, tỉnh Bến Tre. Song thân là ông Nguyễn Ngọc Đẩu
(1857-1882) và bà Võ Thị Sót (1856-1919). Sớm mất cha, tiền khai ở với ông nội
là Nguyễn Hữu Chơn (1832-1908), được nội dạy chữ Nho và quốc ngữ (1886). Tiền khai
ra trường tỉnh học lớp ba (1895), thi đậu vào collège de Mỹ Tho (1897) ở tỉnh Mỹ
Tho,([5])
rồi lên Sài Gòn học collège Chasseloup-Laubat (1900-1902).([6])
Năm 1902, tiền khai kết hôn với cô Trương Thị Tài
(1886-1906), sinh được hai con
là Nguyễn Thị Tú (1903-1926) và Nguyễn Ngọc Hớn (1905-1951).
Năm 1908, tiền khai tục huyền với cô Bùi Thị Giàu
(1884-1937), sinh được ba trai
là Nguyễn Ngọc Kỷ (1910-1978), Nguyễn Ngọc Bích (1911-1966),([7])
Nguyễn Ngọc Nhựt (1918-1952),([8])
và hai gái là Nguyễn Thị Yến (1913-2004), Nguyễn Thị Nguyệt (1915-2009).
Đời
công chức (1902-1930)
Tốt nghiệp collège
Chasseloup-Laubat, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương thi đậu
ngạch thơ ký thượng thơ, làm việc một năm ở Dinh Thượng Thơ Sài Gòn ([9])
rồi về quê nhà Bến Tre làm việc (1903-1919).
Năm
1919 (Kỷ Mùi), tiền khai hiệp cùng một số vị đồng thanh khí thành lập Hội Buôn An Nam và Hội Khuyến Văn trước khi đổi đi quận Châu Thành (tỉnh Cần Thơ).
Hội
Buôn An Nam nhằm giúp đồng bào ý thức, biết bảo vệ quyền lợi kinh tế và thương
mãi vì thời ấy thương trường hầu như do ngoại kiều chi phối trọn vẹn.
Hội Khuyến Văn nhằm khuyến khích dân chúng hiếu học để tiến
bộ và bảo vệ phong hóa nước nhà. Hội tổ chức những buổi diễn thuyết và lưu hành
một nội san để cổ động đồng bào học quốc ngữ, đọc sách báo, sáng tác thơ văn,
đề cao đạo nghĩa nhân luân, tình yêu nước thương nòi, bài trừ mê tín dị đoan,
hủ tục…
Cuối năm Kỷ Mùi, tiền khai thi đậu ngạch tri huyện,([10])
được bổ làm chủ quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ, nhưng sau ba tháng thì đổi đi làm
chủ quận Hòn Chông, tỉnh Hà Tiên.([11])
Dân
địa phương phần đông là người gốc Miên (Khmer)
và Hoa kiều, người Việt thưa thớt. Dân chúng hầu hết nghèo nàn, cơ cực, thất
học. Tiền khai chỉ dẫn cách nung đá làm vôi, giúp họ kế sinh nhai. Tiền khai
cho cất chợ, nhà thương, trường học, đào kinh dẫn nước vào các ruộng, đặc biệt
là đào con kinh chạy từ quận Hòn Chông tới quận Rạch Giá. Tiền khai giúp vốn và
chỉ dẫn dân chúng khai khẩn đất hoang, đất rừng thành đồng ruộng.
Chẳng
những không tìm cách chiếm hữu các thửa đất mới được khai khẩn, tiền khai còn
từ khước việc chánh phủ thuộc địa muốn tưởng thưởng công lao bằng cách cấp một
sở đất để tiền khai đứng tên làm chủ (đứng bộ).
Trong mấy năm làm việc ở quận Hòn Chông, tiền khai có tu theo
đạo Minh Sư,([12])
ăn chay và tịnh luyện.
Rời Hòn Chông, tiền khai đổi đến quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ
Lớn, làm chủ quận ba năm (1924-1927). Đức độ và uy tín của tiền khai đối với
dân chúng địa phương rất lớn.([13])
Sau khi được thăng ngạch tri phủ,([14])
trong thời gian công tác ở quận Cần Giuộc, tiền khai lại đổi đi làm chủ quận
Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa trong ba năm (1927-1930).
Quận
này hẻo lánh, gần rừng núi, cạnh bờ biển, hầu như còn hoang sơ. Người Kinh
chiếm khoảng phân nửa dân số, còn lại là người dân tộc (thời Pháp thuộc quen
gọi là mọi, về sau gọi là đồng bào thiểu số).
Tiền
khai cho mở trường học, lập chợ để cải thiện đời sống dân chúng, mở đường giao
thông, đặc biệt là con lộ từ Long Hải đi Nước Ngọt; xin phép chánh phủ thuộc
địa cho dân khẩn rừng khai hoang lấy đất canh tác.
Tại Xuyên Mộc, tiền khai mở được các thánh thất như: Hội Mỹ,
Long Tân, Xuyên Mộc…
Sau này, tuân lời dạy của Đức Cao Đài, tiền khai xin nghỉ
việc đời để hành đạo vào cuối năm 1930 (Canh Ngọ).
Thanh tra Lalaurette tuy không thiện cảm với đạo Cao Đài cũng
phải thừa nhận chủ quận Nguyễn Ngọc Tương là một công chức đứng đắn và siêng
năng.([15])
Vào
đạo Cao Đài (tháng 02-1926)
Trong bốn năm tiền khai Nguyễn Ngọc Tương làm việc ở Hòn
Chông (1920-1924) thì tiền khai Ngô Văn Chiêu (1878-1932) đang làm việc trên
đảo Phú Quốc. Tại Phú Quốc, tiền khai Ngô Văn Chiêu có kết giao với Thái Lão Sư
Tùng Ngạc của đạo Minh Sư thì ở Hòn Chông, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương cũng
biết đạo Minh Sư, tập ăn chay và tu thiền.([16])
Tiền khai Nguyễn Ngọc Tương nhập môn Cao Đài khoảng thượng
tuần tháng 02-1926 (hạ tuần tháng 12 Ất Sửu), trong lúc đang làm chủ quận Cần
Giuộc.([17])
Thứ Bảy 26-6-1926 (17-5 Bính Dần), thọ
Thiên phong Thượng Phối Sư. Thứ Ba 10-8-1926 (03-7 Bính Dần), thăng Thượng Chánh
Phối Sư ngày 16-11-1926 (12-10 Bính Dần).
Tối Thứ Tư 29-9-1926 (23-8 Bính Dần), cuộc họp Khai Tịch Đạo
tổ chức tại nhà tiền khai Nguyễn Văn Tường (1887-1939,
cũng gọi Võ Văn Tường),([18])
trong số 245 môn đồ ký tên vào danh sách đính kèm theo Tờ Khai Đạo, tiền khai
Nguyễn Ngọc Tương ở vị trí thứ 158 (tờ 9/11), kế sau Hòa Thượng Như Nhãn
(1864-1939) và tiền khai Trần Văn Thụ (1857-1927), tức Thái Lão Sư Trần Đạo
Minh. Nhưng khi Đức Chí Tôn điểm danh 28 vị chính thức đứng tên cuối Tờ Khai
Đạo thì tiền khai Nguyễn Ngọc Tương là người thứ năm với chức danh “tri phủ, chủ quận Cần Giuộc”.([19])
Đầu năm 1927, tuân lời dạy
của Đức Lý Giáo Tông tại chùa Gò Kén (Thiền Lâm Tự 禪林寺, làng
Long Thành, tỉnh Tây Ninh),([20]) tiền khai Nguyễn Ngọc Tương cùng tiền khai Chánh Phối Sư Hương
Thanh (1874-1937) thay mặt Hội Thánh cùng đứng tên làm chủ đất đai, tài sản mới
mua của đạo Cao Đài.
Xuất gia, hành đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh (1931-1934)
Cuối năm 1930 (Canh Ngọ), tuân lịnh Đức Cao
Đài, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương nộp
đơn xin từ chức chủ quận, chuẩn bị về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo.
Thứ Hai 02-02-1931 (15-12 Canh
Ngọ), tiền khai gởi bổn đạo Châu Tri số 1,([21]) có lẽ để thông báo chánh thức việc nhận
trách nhiệm tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Mùa xuân 1931 (tháng 02 Tân Mùi), tiền khai
nghỉ việc đời, về Tòa Thánh Tây Ninh hành đạo.
Thứ Bảy 09-5-1931 (22-3 Tân Mùi), tiền khai
tự nguyện làm hai văn bản giao cho Hội Thánh giữ làm bằng chứng.
Trong văn bản thứ nhất, tiền khai minh xác
rằng thửa đất cất Tòa Thánh tại Tây Ninh do tiền của bổn đạo mua, tiền khai
Nguyễn Ngọc Tương và tiền khai Chánh Phối Sư Hương Thanh chỉ ghi tên đứng bộ
giúp Hội Thánh mà thôi.
Trong văn bản thứ hai, tiền khai minh xác
rằng kể từ ngày 09-5-1931 là ngày tiền khai xuất gia, thì họ tên của tiền khai
không còn dùng để làm sở hữu chủ tài sản tư riêng nữa. Từ ngày này về sau, bất
kỳ tài sản chi mang tên Nguyễn Ngọc Tương tức là tài sản của Hội Thánh Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ.
Hai văn bản này có chánh quyền làng Long Thành thị thực, và
có công chứng tại Tòa Bố tỉnh Tây Ninh.([22])
Khi tiền khai Lê Văn Trung thọ phẩm Quyền Giáo Tông vào Chủ Nhật
12-3-1933 (17-02 Quý Dậu), tiền khai Nguyễn Ngọc Tương được thăng lên Quyền Thượng
Đầu Sư. Cùng dịp này, tiền khai Ngọc Chánh Phối Sư Lê Bá Trang (1878-1936) và tiền
khai Thái Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Thơ (1873-1950) cũng được thăng lên Quyền Ngọc
Đầu Sư và Quyền Thái Đầu Sư.
Rời Tòa Thánh Tây Ninh, lập Ban Chỉnh Đạo
(1934)
Từ
đầu tháng 3-1933 (tháng 02 Quý Dậu) đến đầu tháng 3-1934 (tháng 01 Giáp Tuất), tại Tòa Thánh Tây Ninh
liên tiếp xảy ra nhiều việc bất hòa giữa các chức sắc lãnh đạo Hội Thánh. Đó
cũng là mầm mống để nền Đạo bị phân hóa thành các chi phái sau này.
Trước
tình trạng căng thẳng khó có thể giải quyết ổn thỏa, tiền khai Nguyễn Ngọc
Tương chọn giải pháp rời Tòa Thánh, lui về Đất Đỏ (Bà Rịa), vào núi Kỳ Vân ([23])
ẩn tu.
Thứ Ba 24-7-1934 (13-6 Giáp Tuất), thể theo nguyện vọng của
nhiều chức sắc và tín đồ, nhất là tiền khai Quyền Ngọc Đầu Sư Lê Bá Trang, tiền
khai Nguyễn Ngọc Tương rời núi Kỳ Vân, trở về chấn chỉnh nền Đạo và dìu dắt
nhơn sanh.
Không thể ở Tòa Thánh Tây Ninh được nữa, tiền khai lập văn
phòng tại thánh thất Bình Hòa (Gia Định) và thánh thất An Hội (Bến Tre). Tiền khai
ra Châu Tri số 3 thông báo sự việc cho bổn đạo.
Thứ Sáu 27-7-1934 (16-6 Giáp Tuất), tiền khai Quyền Thượng
Đầu Sư Nguyễn Ngọc Tương và tiền khai Quyền Ngọc Đầu Sư Lê Bá Trang ra Châu Tri
số 4, thông báo việc lập Chương Trình
Chỉnh Đạo.
Thứ Ba 20-11-1934 (14-10 Giáp Tuất), một đại hội tại thánh
thất An Hội chính thức thành lập Ban Chỉnh Đạo bao gồm đại biểu mười tám tỉnh:
Bạc Liêu, Bà Rịa, Bến Tre, Biên Hòa, Cần Thơ, Châu Đốc, Chợ Lớn, Gia Định, Gò
Công, Long Xuyên, Mỹ Tho, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Tân An, Tây Ninh, Trà
Vinh, và Vĩnh Long. Tổng cộng hai mươi mốt đại biểu (riêng Bến Tre, Chợ Lớn và
Gia Định mỗi tỉnh có hai đại biểu). Ban Chỉnh Đạo lập xong buổi sáng thì chiều
cùng ngày đại hội nhận được điện tín của Tòa Thánh Tây Ninh báo tin tiền khai Quyền
Giáo Tông Lê Văn Trung (1876-1934) quy thiên.
Nhậm
chức Giáo Tông (1935)
Triệu tập từ Thứ Hai 11 đến Thứ Năm 14-02-1935 (08 đến 11-01
Ất Hợi), do tiền khai Thượng Chưởng Pháp Lê Bá Trang chủ tọa, Hội Vạn Linh công
cử tiền khai Nguyễn Ngọc Tương làm Giáo Tông Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo. Lúc ấy Hội
Thánh có được chín mươi sáu thánh thất so với một trăm ba mươi lăm thánh thất
của toàn Đạo, chiếm tỷ lệ 71%.([24])
Thứ Năm 09-5-1935 (07-4 Ất Hợi), tiền khai chính thức nhậm chức Giáo Tông tại
thánh thất An Hội.
Ra Huế và Hà Nội (1937)
Trong khoảng bảy năm
(1935-1942) với trọng trách chưởng quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh Ban Chỉnh Đạo, tiền
khai Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương đã không quên thực hiện hoài bão đem đạo Cao
Đài vượt ra ngoài địa giới Nam Kỳ. Năm 1937 (Đinh Sửu), người đích thân đi Huế
và Hà Nội trong hoàn cảnh luật đời đang ngăn cấm nền tôn giáo mới.
Triều đình Huế cấm đạo Cao Đài
Từ năm 1928 triều đình Huế
đã cấm truyền đạo Cao Đài ở Trung Kỳ. Năm Bảo Đại thứ Ba ([25]) có Thông Tư ngày 04-01 như sau:
“Cơ Mật Viện thông tư các nha tại kinh đô và các phủ, tỉnh, đạo tại
ngoại:
Chiếu theo khoản thứ 13 trong hòa ước năm 1884, thời được truyền giáo
giảng giáo trong bản quốc duy giáo Thiên Chúa mà thôi, ấy là thuộc về đồng tôn
và các ông giám mục, linh mục, giáo sĩ về giáo La Mã ([26])
mới được truyền thọ giáo pháp.
Gần đây nghe được có tân giáo tức là hội Tin Lành và đạo Cao Đài truyền
giáo tại xứ Nam Kỳ đã nhiều, mới đây đã tràn ra vài tỉnh phía nam Trung Kỳ, nếu
hai giáo ấy truyền bá càng ngày càng nhiều, người tin theo càng ngày càng đông,
thời những kẻ hiếu sự không khỏi mượn đó mà làm rối loạn cuộc trị an trong bản
hạt, mà nhơn dân phải mắc lầm, tức như tụi Võ Trứ và Trần Cao Vân ([27])
năm trước đều nhơn sự truyền giáo mà phiến loạn, cho đến họa cập bình dân thiệt
là gương trước mắt.
Vậy nên thương đồng với với các quan công sứ, cấm chỉ tân giáo ấy và đạo
Cao Đài, chớ cho truyền bá lưu hành trong hạt Trung Kỳ; hễ không tuân thời
chiếu luật nghĩ trị. Khoản nầy đã thương quý khâm sứ đại thần ý hiệp. Vậy nên
thông tư cho các quan biết mà làm.” ([28])
Năm sau, Thông Tri số 40,
Thứ Tư 06-3-1929 (25-01 Kỷ Tỵ, năm Bảo Đại thứ Tư) tiếp tục cấm dân chúng theo
đạo Cao Đài và cấm truyền đạo Cao Đài ở Trung Kỳ.([29])
Hai năm trước khi tiền khai Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương ra Huế, Thượng Thư Bộ Lễ là Tôn Thất Quảng đã gởi các quan
tỉnh Trung Kỳ Thông Tri số 1104, Thứ Tư 19-6-1935 (19-5 Ất Hợi), nội dung như
sau (dịch):
“Nhiều tỉnh vừa mới báo
cáo cho tôi biết về hoạt động của các người truyền đạo Cao Đài trong dân An Nam
ở Trung Kỳ. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc nhở các ông rằng việc theo đạo Cao Đài
và truyền đạo Cao Đài hay ‘Phật Giáo chấn hưng’ vẫn còn bị cấm ở Trung Kỳ,
chiếu theo các quy định vẫn còn hiệu lực của Thông Tri số 40 ngày 25 tháng
Giêng năm Bảo Đại thứ Tư (ngày 06-3-1929), và những người vi phạm các quy định
đó sẽ bị truy tố. Tôi yêu cầu các ông xem xét kỹ việc các tri phủ, tri huyện
dưới quyền thông báo cho dân chúng biết về lệnh cấm này và các quy định của Thông
Tri này phải được chấp hành nghiêm nhặt.
“Qua các quan công sứ ở
các tỉnh, xin các ông vui lòng báo cáo ngay cho tôi biết về bất kỳ một biểu
hiện nào có tính cách Cao Đài.” ([30])
Trong hoàn cảnh ấy, chuyến đi Huế năm 1929 của tiền khai Thái
Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc Thơ và sau đó là chuyến đi Bình Định của tiền khai Thượng
Giáo Sư Vương Quan Kỳ (1880-1939), đều là chức sắc Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh,
vì thế đã thất bại. Chuyến đi Huế và Hà Nội của tiền khai Giáo Tông Nguyễn Ngọc
Tương có thể xem là để thăm dò tình thế.
Đi theo tiền khai Giáo Tông Nguyễn Ngọc Tương trong
chuyến ra Bắc năm 1937 có thanh đồng Tô Văn Pho mười tám tuổi.
([1]) Ngày 09-4-1926
Aristide Eugène le Fol, ngạch tham biện hạng nhất (administrateur de 1er classe), được bổ làm Quyền Thống Đốc Nam Kỳ,
nhậm chức ngày 19-4-1926. Như vậy các sách sử Cao Đài hay chép Le Fol là “Thống Đốc” thì không đúng. Ông chỉ là
Quyền Thống Đốc, đảm nhiệm chức vụ khoảng hơn nửa năm trong lúc chờ một thống đốc
chính thức từ Pháp bổ sang. Tuy nhiên, trong cách xưng hô (như trên Tờ Khai Đạo
ngày 07-10-1926), mọi người vẫn gọi ông là Thống Đốc vì phép lịch sự.
([3]) Tối Thứ
Tư 29-9-1926 (23-8 Bính Dần), cuộc họp Khai Tịch Đạo tổ chức tại nhà tiền khai
Nguyễn Văn Tường (cũng gọi Võ Văn Tường, 1887-1939) ở số 237 bis Gallieni, Sài
Gòn (nay là Trần Hưng Đạo, quận 1), trong số 245 môn đồ ký tên vào danh sách
kèm theo Tờ Khai Đạo, ở vị trí thứ 94 (tờ 6/11) có ghi phương danh Hồ Quang
Châu.
([5]) Nghị định
ngày 17-3-1879 của Thống Đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers thành lập collège de Mỹ Tho tại tỉnh Mỹ Tho (nghị
định bổ sung ngày 14-6-1880). Ngày 02-12-1942,
trường đổi tên là collège Le Myre de Vilers. Do nghị định 179-NÐ ngày
22-3-1953 của Tổng Trưởng Giáo Dục Nguyễn Thành Giung, trường đổi tên là trung
học Nguyễn Ðình Chiểu cho tới nay. Ông Giung sinh năm 1894 tại Sa Đéc, lấy tiến
sĩ vạn vật học tại Marseille (Pháp), làm Tổng Trưởng Bộ Giáo Dục nhiệm kỳ
1952-1953 thời Bảo Đại làm quốc trưởng Quốc Gia Việt Nam (l’État du Việt Nam).
Bấy giờ Thủ Tướng là Nguyễn Văn Tâm, nhiệm kỳ từ 23-6-1952 đến 07-12-1953. (Theo wikipedia).
Charles
Marie le Myre de Vilers là cựu tỉnh trưởng (préfet),
cựu giám đốc dân sự vụ (directeur des
affaires civiles) ở Algérie (Bắc Phi), được bổ làm Thống Đốc Nam Kỳ ngày
13-5-1879, nhậm chức từ 07-7-1879 đến 11-01-1883, vắng mặt ở Sài Gòn từ
04-3-1881 đến 31-10-1881. [SHAOAB
1981: 538-539]
([6]) Lược sử collège
Chasseloup-Laubat như sau: Pháp thành lập école Normale colonial (trường sư phạm thuộc địa, 10-7-1871); xây
trên nền cũ chùa Khải Tường (12-8-1871). Đổi tên thành collège Indigène (trường bản xứ, 1874) [có lẽ do một nghị định của Phó Đô Đốc, Thống Đốc Nam Kỳ Jules François
Emile Krantz ký ngày 14-11-1874. (Huệ Khải chú)]. Đổi tên thành collège Chasseloup-Laubat (1876), chia
ra khu Âu (quartier européen) và khu
bản xứ (quartier indigène). Tách khu
bản xứ nhập sang collège de Cochinchine
(trung học Nam Kỳ, 15-7-1927). Collège Chasseloup-Laubat đổi tên thành lycée Chasseloup-Laubat (1928), còn
collège de Cochinchine đổi tên thành lycée
Petrus Ký. [Nguyễn Đình Đầu 1998: 696, 730]
Chasseloup-Laubat là Bộ Trưởng Hải Quân Và Thuộc
Địa của triều đình Pháp, chủ trương chiếm Sài Gòn để làm căn cứ thuận lợi cho
quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông. Ông ta tác động vua Napoléon III rất nhiều
trong chính sách xâm lược, cướp Nam Kỳ làm thuộc địa. [Nguyễn Thế Anh 1974: 14,
22, 25]
([7]) Ông Nguyễn Ngọc Bích sinh năm 1911 tại làng
An Hội, tổng Bảo Hựu (nay là phường 5, thành phố Bến Tre), qua Pháp học trường
Bách Khoa (Polytechnique) ở Paris.
Tốt nghiệp kỹ sư cầu cống, ông về nước làm việc tại Sở Thủy Lợi của tỉnh Sóc
Trăng đến ngày Nhật đảo chánh Pháp. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946)
ông tham gia kháng chiến, làm Khu Bộ Phó của Khu 9 (Tây Nam Bộ). Đầu năm 1947,
giặc Pháp càn quét ở Sóc Trăng, ông bị bắt làm tù binh. Năm 1948, ông bị cưỡng
bách đưa về Pháp (vì có quốc tịch Pháp). Tại Paris, ông mở nhà xuất bản Minh
Tân, in được nhiều tác phẩm giá
trị. Ông lấy thêm bằng bác sĩ, chuyên khoa ung thư. Ông mất năm 1966 tại Thủ
Đức vì ung thư, an táng tại Bến Tre, gần mộ bào đệ Nguyễn Ngọc Nhựt.
([8]) Ông Nguyễn
Ngọc Nhựt sinh ngày 15-9-1918 tại làng An Hội (nay là phường 5, thành
phố Bến Tre), du học ở Pháp, đậu bằng kỹ sư tạo tác, làm chuyên viên kỹ thuật
cho các hãng buôn của Pháp trong nhiều năm. Vợ là con một kỹ sư người Pháp.
Công ty kênh đào Suez từng mời ông về làm việc, nhưng ông từ chối.
Năm 1946, ông tìm cách về nước để tham gia
kháng chiến. Nhờ sự giúp đỡ của bào huynh là kỹ sư Nguyễn Ngọc Bích (bị Pháp
bắt đưa sang quản thúc tại Pháp năm 1948), ông Nhựt làm căn cước giả, trà trộn
trong số lính thợ Việt Nam (ONS: Ouvrier
Non Spécialisé), đáp tàu thủy về Sài Gòn.
Đầu
năm 1947, ông Nhựt ra vùng kháng chiến tại chiến khu Đồng Tháp Mười.
Năm
1948, ông được cử làm ủy viên Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Bộ, phụ trách
công tác thương binh và xã hội.
Ngày
02-6-1949, trong một trận càn của quân Pháp ở Đồng Tháp Mười, ông bị bắt tại
Cái Bèo (tỉnh Sa Đéc, nay là tỉnh Đồng Tháp). Ông khai là Nguyễn Văn Huyện,
giáo viên bình dân học vụ, nhưng quân Pháp đã điều tra được thân thế của ông.
Sau rất nhiều cố gắng mua
chuộc, dụ hàng bị thất bại, quân Pháp tra tấn ông dã man, tiêm thuốc cho ông
rối loạn thần kinh. Sau hai lần chuyển nhà tù, ông bị giặc đưa về giam ở nhà
thương điên Biên Hòa, không được chữa trị. Tại đó, ông hy sinh ngày 16-5-1952.
Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa truy tặng ông bằng liệt sĩ và Huân Chương
Kháng Chiến hạng nhất.
([9]) Theo
[Vương Hồng Sển 1990: 110] thì Dinh Thượng Thơ (Direction de l’Intérieur) gọi thay cho danh xưng Dinh Đổng Lý Nội
Vụ (Direction de l’Intérieur), trụ sở
cất xong năm 1864. Từ năm 1946 gọi là Dinh Thủ Hiến Nam Việt, rồi trở thành Tòa
Đại Biểu Nam Phần, sau đó là Bộ Kinh Tế Việt Nam Cộng Hòa (nằm trên đường Gia
Long, gần góc đường Tự Do). Theo [Đào Văn Hội 1971: 18], Dinh Thượng Thơ sau
này cũng gọi là Dinh Hiệp Lý.
([10]) Những năm khoảng trước 1925, trường cao đẳng
dạy luật và hành chánh ở Hà Nội (école
supérieure de droit et d’administration) chưa đào tạo và cung cấp đủ người
dùng, thì ngạch tri huyện cũng được tuyển chọn trong hàng thơ ký lâu năm, nhưng
buộc họ phải qua hai kỳ thi gay go: (a) examen
de culture générale, khảo về học lực phổ thông; (b) concours professionnel, khảo về chuyên nghiệp và khả năng. Ngạch
tri huyện có hai bậc: Hạng nhì (huyện de
2e classe), và cao hơn là hạng nhất (huyện de 1er classe). Năm 1920, mức lương tri
huyện hạng nhất khoảng 1.222 đồng. [Huệ Khải 2012b: 10]
([13]) Truyền
rằng mới đổi về quận Cần Giuộc không lâu, tiền khai xử vụ kiện như sau: Lấy
chồng được sáu tháng, cô vợ cuốn gói bỏ về nhà cha mẹ, bên chồng đệ đơn xin chủ
quận xử. Tại công đường, cha cô giãi bày rằng trong nửa năm ở nhà chồng thật sự
cô chỉ làm dâu chứ không hề được làm vợ. Người chồng thú thật đã vay hai mươi
đồng lo cưới vợ, nên sau đám cưới phải đi ở đợ để trả cho tới khi nào dứt vốn
lẫn lời; vợ chồng mới cưới vì thế đành phân ly cách biệt. Chủ nợ cũng xác nhận
sự việc như vậy. Chạnh lòng trước cảnh khổ của cặp vợ chồng son, tiền khai lấy
tiền riêng trả nợ thay cho họ.
([14]) Cũng
như ngạch tri huyện, ngạch tri phủ có hai hạng. Người có ngạch tri huyện hạng
nhất, đủ thâm niên sẽ được thi lên ngạch tri phủ hạng nhì (phủ de 2e classe), mức lương năm 1924 khoảng
1.672 đồng; hạng nhất (phủ de 1er classe),
mức lương năm 1926 khoảng 1.933 đồng. Cao hơn ngạch tri phủ là đốc phủ sứ,
thường gọi tắt là đốc phủ. [Huệ Khải 2012b: 11]
([17]) [Nguyễn Ngọc Tương
1958: 13] cho rằng tiền khai nhập môn “cuối
năm 1925, tại quận Cần Giuộc”. Nhưng theo [Hương Hiếu I: 47] mãi đến 19-12
Ất Sửu (Thứ Hai 01-02-1926) tiền khai vẫn chưa vào đạo Cao Đài, và chính ngày
ấy tiền khai Lê Văn Trung đã bạch với Đức Cao Đài xin phép cho ba vị Lê Văn
Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đi Cần Giuộc để độ tiền khai Nguyễn Ngọc
Tương. Như vậy, tiền khai Nguyễn Ngọc Tương nhập môn sớm lắm thì cũng trong hạ
tuần tháng 12 Ất Sửu, tức thượng tuần tháng 02-1926.
([18]) Đêm ấy,
lúc 8 giờ, tại nhà tiền khai Nguyễn Văn Tường, số 237 bis, trong một hẻm trên
đường Gallieni (nay là số 208 đường Cô Bắc, quận 1), có cuộc họp đông đảo để
chuẩn bị đăng ký tư cách pháp nhân của đạo Cao Đài. Ngay trước cuộc họp, một
cơn mưa như trút kéo dài nhiều giờ làm ngập nhiều nơi chung quanh. Cuộc họp vì
thế được cô lập, tránh khỏi sự tò mò của người ngoài cuộc, nhất là cảnh sát
thuộc địa.
Có thể
xem đây là phép mầu nhiệm thiêng liêng để cuộc họp không bị nhà chức trách ngăn
trở, vì lẽ thời ấy họp từ 20 người trở lên phải xin phép chánh quyền. Chưa biết
cuộc họp khoảng 250 người hôm ấy có xin phép hay không, nhưng khi chọn địa điểm
tại nhà tiền khai Nguyễn Văn Tường, ngoài yếu tố nhà rộng, ắt còn có
yếu tố tâm lý vì đấy là nhà của một thông ngôn (interprète) tại Sở Tuần Cảnh Sài Gòn.
Dưới sự
đồng chủ trì của ba vị tiền khai Thượng Đầu Sư Lê Văn Trung (1876-1934), Ngọc Đầu
Sư Lê Văn Lịch (1890-1947) và Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư (1888-1929), cuộc họp lịch
sử này quy tụ hơn hai trăm chức sắc và tín đồ đầu tiên của đạo Cao Đài.
Kết quả có 245 vị ký tên vào danh sách đính kèm
theo hồ sơ. Còn văn bản tiếng Pháp có 28 môn đệ ký tên, ghi ngày 07-10-1926, được tiền khai Lê Văn Trung đích thân mang
đến Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol tại Phủ Thống Đốc Nam Kỳ (từ 13-12-1999 đến
nay gọi là Bảo Tàng Thành Phố, số
65 Lý Tự Trọng, quận 1). [Huệ Khải 2008: 32-34].
([19]) Đức Cao
Đài giáng cơ tại nhà tiền khai Nguyễn Văn Tường ngay sau buổi họp, và ban ơn
cho 28 vị (chọn trong danh sách 245 vị) được đồng ký tên dưới Tờ Khai Đạo, gồm có:
1. Bà Lâm Ngọc Thanh, nghiệp chủ, Vũng
Liêm. / 2. Ông Lê Văn Trung, cựu thượng nghị viên, ngũ đẳng bửu tinh, Chợ Lớn.
/ 3. Ông Lê Văn Lịch,
thầy tu, làng Long An, Chợ Lớn. / 4. Ông Trần Đạo Quang, thầy tu, làng Hanh
Thông Tây, Gia Định. / 5. Ông Nguyễn
Ngọc Tương, tri phủ, chủ quận Cần Giuộc. / 6. Ông Nguyễn Ngọc Thơ, nghiệp
chủ, Sài Gòn. / 7. Ông Lê Bá Trang, đốc phủ sứ, Chợ Lớn. / 8. Ông Vương Quan
Kỳ, tri phủ, Sở Thuế Thân, Sài Gòn. / 9. Ông Nguyễn Văn Kinh, thầy tu, Bình Lý
Thôn, Gia Định. / 10. Ông Ngô Tường Vân, thông phán Sở Tạo Tác, Sài Gòn. / 11.
Ông Nguyễn Phát Đạt, nghiệp chủ, Sài Gòn. / 12. Ông Ngô Văn Kim, điền chủ, đại
hương cả, Cần Giuộc. / 13. Ông Đoàn Văn Bản, đốc học trường Cầu Kho, Sài Gòn. /
14. Ông Lê Văn Giảng, thơ ký kế toán hãng Hippolito, Sài Gòn. / 15. Ông Huỳnh
Văn Giỏi, thông phán Sở Tân Đáo, Sài Gòn. / 16. Ông Nguyễn Văn Tường, thông
ngôn Sở Tuần Cảnh, Sài Gòn. / 17. Ông Cao Quỳnh Cư, thơ ký Sở Thương Chánh, Sài
Gòn. / 18. Ông Phạm Công Tắc, thơ ký Sở Thương Chánh, Sài Gòn. / 19. Ông Cao
Hoài Sang, thơ ký Sở Thương Chánh, Sài Gòn. / 20. Ông Nguyễn Trung Hậu, đốc học
trường tư thục Đa Kao, Sài Gòn. / 21. Ông Trương Hữu Đức, thơ ký Sở Hỏa Xa, Sài
Gòn. / 22. Ông Huỳnh Trung Tuất, nghiệp chủ, Chợ Đũi, Sài Gòn. / 23. Ông Nguyễn
Văn Chức, cai tổng, Chợ Lớn. / 24. Ông Lại Văn Hành, hương cả, Chợ Lớn. / 25.
Ông Nguyễn Văn Trò, giáo viên, Sài Gòn. / 26. Ông Nguyễn Văn Hương, giáo viên,
Đa Kao. / 27. Ông Võ Văn Kỉnh, giáo tập, Cần Giuộc. / 28. Ông Phạm Văn Tỉ, giáo
tập, Cần Giuộc. [Huệ Khải 2008: 32-34].
([27]) Võ Trứ
(?-1898) người làng Nhơn Ân, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Tham gia phong
trào Cần Vương của Mai Xuân Thưởng (1885) nhưng thất bại, ông trốn lên núi, ẩn
tu trong chùa nhỏ ở huyện Đồng Xuân (tỉnh
Phú Yên). Sau này ông kết hợp với Trần Cao Vân mưu việc chống Pháp. Cuộc khởi
nghĩa ở Phú Yên (1898) thất bại, ông bị Pháp xử tử.
Trần Cao Vân (1866-1916) tên
thật là Trần Công Thọ, một tên khác là Trần Cao Đệ, biệt hiệu Hồng Việt, bí
danh Chánh Minh, biệt danh là Bạch Sĩ. Ông người làng Tư Phú, tổng Đa Hòa, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông
cùng Thái Phiên và vua Duy Tân tổ chức khởi nghĩa kháng Pháp, vì thất bại nên
bị chém (1916). Đặc điểm của hai nhà ái quốc Võ và Trần là mọi hoạt động tuyên
truyền, đi lại các nơi để chiêu tập nghĩa binh, thu phục nhân tâm… đều ngụy
trang dưới hình thức tín ngưỡng dân gian: Võ Trứ khoác cà sa làm sư cho thuốc
cứu bệnh dịch; Trần Cao Vân làm đạo sĩ kiêm thầy phong thủy.
(Trước khi ban hành, Thông Tri
này được Đổng Lý Văn Phòng Patau (thay mặt khâm sứ Trung Kỳ và được ủy quyền)
duyệt ở Huế ngày 22-6-1935.)
Để biết thêm thông tin về quá
trình cấm đạo Cao Đài ở Trung Kỳ, có thể tham khảo: Huệ Khải, Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ (1928-1950) / Caodaism
under Persecution in Central Vietnam (1928-1950). Hà Nội: Nxb Tôn Giáo
2012. Quyển 53-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
HUỆ KHẢI
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.