NỬA THẾ KỶ CÔNG ĐỒNG VATICAN II: MỘT CHÚT TÂM TÌNH CỦA NGƯỜI ĐẠO CAO ĐÀI
Về đạo pháp các con cũng biết
Thầy đến lần ba này làm sao cho
nhơn loại khắp trên mặt địa cầu
được sống lại ơn cứu độ
lan chảy khắp năm châu.
Trước đây năm, sáu mươi năm
các con cũng thấy các tôn giáo như ngủ mê
mà từ ngày được Đạo Thầy hoằng khai
thì các tôn giáo lần lượt chấn hưng.
Sự sống đó chẳng những đến cho các con
mà đến khắp hoàn cầu,
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế
Công Đồng Vatican II là công đồng
đại kết (ecumenical council) của Giáo Hội Công Giáo Rôma, được Đức Gioan XXIII (1881-1963)
khai mạc ngày 11-10-1962, bốn năm sau ngày đắc cử
Giáo Hoàng (28-10-1958). Công Đồng này được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
(1897-1978) bế mạc ngày 08-12-1965.
Những ai trót quen suy nghĩ theo lề
thói thông thường đều không khỏi sửng sốt, bởi lẽ họ ngỡ rằng Đức Giáo Hoàng
Gioan XXIII đã “quá già” nên không thể nào còn có ý tưởng về một cuộc đổi mới
Giáo Hội. Thế nhưng, bằng một quyết định lịch sử, Đức Giáo Hoàng tám mươi mốt
tuổi hiển nhiên đã chẳng hề “già cỗi” chút nào hết. Vì vậy, từ ấy đến nay, khi
nhắc tới Công Đồng Vatican II, giới tu hành đạo đức vẫn tỏ lòng kính ngưỡng và
tán thán công đức hoằng đại của Đức Chân Phước Gioan XXIII (được tôn phong ngày
03-9-2000).
Một chớp nhoáng cảm hứng đột ngột
Trong diễn văn khai mạc Công Đồng
Vatican II vào ngày 11-10-1962, khi nhắc tới quyết định triệu tập Công Đồng,
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII gọi đó là “một
chớp nhoáng cảm hứng đột ngột – a sudden
flash of inspiration”. Ngài còn lưu ý rằng vào ngày 25-01-1959, tức là chưa tròn ba tháng sau khi đắc cử Giáo
Hoàng, Ngài đã từng tỏ bày ý định này trước một số vị trong Hồng Y Đoàn (the Sacred College of Cardinals) sau khi
dự lễ tại Vương Cung Thánh Ðường Thánh Phaolô Ngoại Thành.
Đức Giáo Hoàng hé lộ rằng hôm ấy, khi bày tỏ ý định trước một
số vị Hồng Y, Ngài đã “không chăm chút
công phu, tỉ mỉ – without elaboration” chi hết, thế nhưng “hiệu ứng” đến
liền tức thì và lan tỏa sâu rộng! Đức
Giáo Hoàng kể:
“Mọi
người hưởng ứng tức thì. Dường như có tia sáng siêu nhiên nào đó soi rọi vào
tâm hồn tất cả những người có mặt: nó phản chiếu trên gương mặt họ; nó tỏ ngời
trong ánh mắt họ. Lập tức một làn sóng nhiệt thành quét khắp thế gian, mọi nơi
người ta bắt đầu háo hức đợi chờ cuộc lễ tổ chức Công Đồng này.” ([2])
Ngày nay, đọc lại diễn văn khai mạc năm mươi năm trước, những
người có đức tin nhận thức rằng“một chớp nhoáng cảm hứng đột ngột” đã đến với Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ắt hẳn không gì khác hơn
là Thần Khí (Spirit) của Chúa Thánh Thần, vì chỉ có Thần Khí ấy mới
làm nên một “phép lạ” như Công Đồng Vatican II.
Một lễ Hiện Xuống thứ Hai
Trong diễn văn khai mạc ngày
11-10-1962 của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, cũng như trong diễn văn bế mạc ngày
08-12-1965 của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI,([3])
nếu tôi không lầm, thì thuật ngữ lễ Hiện
Xuống (Pentecost) chưa một lần
được nhắc tới. Thế nhưng ngày nay, khi nói tới ý nghĩa lịch sử của Công Đồng
Vatican II, hầu như đại đa số vẫn rất trân trọng gọi đây là một “lễ Hiện Xuống thứ Nhì – a Second
Pentecost”,
tính từ lễ Hiện Xuống đầu tiên với các Thánh Tông Đồ được ghi rõ trong Sách Công Vụ Tông Đồ (2:1-41). Sự kiện này càng phản ánh rõ nét và
chân thực những gì mà Công Đồng Vatican II đã, đang và sẽ còn tiếp tục tác động
tới đời sống tâm linh con người thời đại, chứ không riêng quảng đại cộng đồng
Ki Tô hữu.
Vậy mà, khi được hỏi về mục đích
triệu tập Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII nói đơn giản là “để mở tung những cánh cửa sổ … và cho chút
không khí trong lành lọt vào – to open the windows … and
let in some fresh air”.(4)
Lời Ngài đơn giản đến thế, nhưng
phải chăng lại hàm ngụ một ẩn ý rằng cái bầu khí trước Công Đồng Vatican II đã
“ngột ngạt”? đang cần “đổi gió”? tức là tới lúc để đổi mới? ([4])
Nhưng thay vì chỉ là đổi mới, Công
Đồng Vatican II được thán thưởng là một công cuộc “Đại Canh Tân – a Great Renewal”.([5])
Một công cuộc Đại Canh Tân
Trên thế gian này, đời hay đạo, thế quyền hay giáo quyền, dù ở
đâu và dù thời đại nào thì cũng phải tuân theo quy luật Thành, Trụ, Hoại, Diệt.
Muốn thoát khỏi quy luật này, mọi thiết chế (institution) đều phải kịp thời tự
điều chỉnh trước khi quá trình đào thải đã đi quá xa, và mọi nỗ lực cứu vãn bấy
giờ sẽ không còn hiệu quả!
Trong đạo Lão xưa
kia (thời Nhị Kỳ Phổ Độ, nói theo sử quan Cao Đài) từng cho thấy sự khác biệt
giữa Đạo (tuyệt đối) và Giáo (tức tôn giáo, tương đối). Vì tuyệt đối nên Đạo
không đầu không cuối, không mở màn không bế mạc, không thịnh không suy. Trái lại,
vì tương đối nên Tôn Giáo có trước có sau, có thịnh có suy. Kim Liên Chính Tông Ký của đạo Lão viết:
“Đạo không đầu cuối, Giáo có trước sau. (…) Đạo thì chân thường,
siêu việt. Giáo thì dạy cách độ người. Đạo là bản thể, tuy trải qua muôn ngàn đời,
chưa hề biến dịch. Giáo là công dụng, có lúc thịnh, có lúc suy.” ([6])
Qua Tam Kỳ Phổ Độ
(đạo Cao Đài), thánh giáo Đức Mẹ (Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu) diễn bày tỉ mỉ
hơn lời lẽ trong đoạn văn dẫn trên của đạo Lão:
“Đạo không hình không tướng. Thế nên đừng ai lấy thúng mà úp cái Đạo,
đừng ai lấy khuôn mà đổ cái Đạo. Phải hiểu Đạo là uyển chuyển, thiên biến vạn
hóa; tùy cơ duyên mà phổ độ; tùy hoàn cảnh thực tại mà linh động, uyển chuyển
tác dụng cho hợp thời đúng lúc; tùy trình độ căn trí mà biện minh phân giải,
thuyết lý độ đời. Điều nào hay thì giữ gìn mà phát triển. Điều nào dở không
thích hợp thì phải trả về cho quá khứ. Điều nào thiếu thì sẽ thêm vô cho đủ. Điều
nào dư thì hãy cắt xén bớt cho tròn vẹn.”
([7])
Nói cách khác, mọi tôn giáo bất kỳ, càng trải qua chiều dài
lịch sử lâu chừng nào thì càng phải đặt ra vấn đề canh tân, đổi mới. Dạy triết
và tôn giáo đối chiếu (comparative religion) tại Viện Đại Học New Mexico , Giáo Sư
Archie J. Bahm (1907-1996) từng xác định:
“Các hình tướng, giáo
lý và thiết chế đặc biệt mà qua đó các nhu cầu, và kinh nghiệm tu hành của một
số người đã được phô diễn thì chúng có thể hóa ra lỗi thời, mà sự tiếp tục duy
trì chúng thường trở nên có hại cho sự tu hành lành mạnh.” ([8])
Tóm lại, mọi tôn giáo đều có yêu cầu tất yếu và
khách quan là phải tự đổi mới.
Đổi mới để trường tồn và phát triển. Với Công
Đồng Vatican II, Ðức Gioan XXIII mở ra một diễn trình (process) đại canh
tân Giáo Hội, làm tươi trẻ lại các cơ cấu và khơi thông dòng nhựa sống trường
xuân sung mãn dồi dào cho Giáo Hội.
Những người có tôn giáo đang hành đạo bên cạnh Công Giáo dĩ
nhiên dễ có xu hướng ưu tiên tìm hiểu xem trong công cuộc đại canh tân Giáo
Hội, Công Đồng Vatican II “nhắm
tới” các tôn giáo khác theo định hướng nào.
Bằng Sắc Lệnh Ad Gentes
Về Hoạt Động Truyền Giáo Của Giáo Hội (Decree Ad Gentes on the Mission
Activity of the Church), Công Ðồng rõ ràng đã “yêu cầu” người Công Giáo phải
hòa mình với người khác tôn giáo. Ad Gentes (số 11) viết:
“Để có thể làm chứng về
Chúa Ki Tô một cách hiệu quả, các Ki Tô hữu hãy đem lòng kính trọng và tình
thương mà liên kết với những người ấy; hãy biết mình là thành phần của nhóm
người mình chung sống; hãy chia sẻ đời sống văn hóa, xã hội qua những giao tiếp
và hoạt động khác nhau trong cuộc sống thế nhân; hãy làm quen với những truyền
thống dân tộc và tôn giáo của những người ấy; hãy sung sướng và kính cẩn mà
khám phá ra những hạt giống Lời Chúa đang tiềm ẩn trong những người ấy.” ([9])
Tìm hiểu những nội dung đổi mới hoạt động truyền giáo trong
tương quan với các tôn giáo khác, người ta thấy Công Đồng Vatican II nhìn nhận: Có nhiều cách đưa tới cứu độ và tất cả các tôn giáo nên được quyền bình
đẳng. Các Ki Tô hữu phải cùng với những người khác truy tầm chân lý.([10])
Tạm gọi đó là thái độ hay
cách ứng xử của Ki Tô hữu với tôn giáo bạn dưới ánh sáng soi rọi của Công Đồng Vatican II. Thái độ hay cách
ứng xử này gợi nhớ tới thuật ngữ lễ Hiện Xuống thứ Hai (the Second Pentecost) hoặc một lễ Hiện Xuống Mới (a New Pentecost) vẫn được dùng khi nói
về Công Đồng. Rồi từ đó, thuật
ngữ này đưa đến một liên tưởng xa hơn, là tháp Babel – biểu tượng cho rào cản
ngôn ngữ giữa các chủng tộc, dân tộc trên thế giới.
Phá
tháp Babel trong tương giao giữa các tôn giáo
Theo Sách Công Vụ Tông
Đồ, trong lễ Hiện Xuống đầu tiên, các Thánh Tông Đồ “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng
khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho. (…) Nghe tiếng ấy, có nhiều người
kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình.” (Cv
2:4,6)
Người truyền giáo theo tinh thần Công Đồng Vatican II cũng sẽ đón nhận được ơn Thánh Thần trong lễ
Hiện Xuống Mới để thông thạo các ngôn ngữ, nhưng không phải ngôn ngữ của các
sắc dân khác nhau, mà là ngôn ngữ riêng của từng tôn giáo không phải Công Giáo.
Xưa nay, những ngộ nhận, kỳ thị, phân biệt, v.v… giữa các tôn
giáo thường là do người đạo này chưa hiểu được tiếng nói của người đạo khác,
dẫu rằng họ đang sống chung một quốc thổ, mang chung một quốc tịch, và nói
chung một quốc ngữ.
Nhà truyền giáo trong môi trường đa tôn giáo nếu có khả năng dùng
được tiếng nói của tôn giáo bạn để đối thoại liên tôn thì “tháp Babel” trong tương
giao giữa các tôn giáo bị phá sập.
Không chỉ nhìn lại, mà còn nhìn tới
Tính từ lúc khai mạc, đến tháng 10
năm nay Công Đồng Vatican II sẽ tròn trịa nửa thế kỷ. Một con số đẹp để kỷ niệm
“kim khánh” theo truyền thống nhân gian. Từ góc độ một người đạo Cao Đài, qua
bài viết ngắn này, tôi mạo muội chia sẻ mấy suy nghĩ của riêng mình về Công
Đồng Vatican II, cụ thể là hai ấn tượng nổi bật mà Công Đồng Vatican II đã in
dấu vào tâm tình của người tín
hữu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: cuộc Đại Canh Tân và lễ Hiện Xuống Mới.
Nhấn mạnh hai chữ “tâm tình” như
thế, có nghĩa là những điều vừa chia sẻ trên đây chẳng có tí gì mang tính cách
“hàn lâm” khi nhắc tới một sự kiện rất trọng đại của lịch sử Giáo Hội Công Giáo
hoàn cầu, đã diễn ra vào giữa thế kỷ trước mà sang tới thế kỷ này, sứ mệnh lịch
sử của Công Đồng Vatican II vẫn tiếp tục tỏa sáng và không ngừng mời gọi mọi
thiện tâm, thiện chí, cùng ra sức thực thi.
Là người có Đạo bên cạnh cộng đồng
Ki Tô hữu, tôi nghĩ rằng tìm hiểu và thấu cảm những sứ điệp mà Công Đồng
Vatican II truyền gởi tới thời đại chúng ta, cũng là một việc làm đúng đạo lý
để góp bàn tay cùng vận hành bánh xe tiến hóa tâm linh của toàn nhân loại mà xưa
nay người Việt chúng ta quen gọi là Thiên cơ (Heaven’s plan).
Sau năm mươi năm, ngoài việc nhìn
lại quá trình Công Đồng Vatican II, hãy nên nhìn tới những viễn cảnh tốt đẹp mà
Công Đồng Vatican II có khả năng sẽ mang đến để góp phần cứu vãn một hành tinh đang
cực kỳ nguy khốn này.
Khi nghĩ thấu đáo như vậy, người tôn
giáo ngoài Công Giáo không nên xem Công Đồng Vatican II là chuyện riêng của nội
bộ Công Giáo.
Chia sẻ sứ điệp cao cả của Công
Đồng gởi tới các tôn giáo bạn, thì cũng cần ý thức chủ động hưởng ứng những nỗ
lực mời gọi đối thoại và hợp tác liên tôn từ Công Giáo để chung tay xây dựng
hạnh phúc đích thực, an bình vững bền cho con người – vốn dĩ là một mục đích
chung của mọi nền chánh giáo kim cổ Đông Tây.
HUỆ KHẢI
29-6-2012
CGvDT
số 1866-1867, ngày 06-7-2012
([2])
“The response was immediate. It was as though some ray of supernatural light
had entered the minds of all present: it was reflected in their faces; it shone
from their eyes. At once the world was swept by a wave of enthusiasm, and men
everywhere began to wait eagerly for the celebration of this Council.” Tham khảo: Opening Address to the Council, mục “The
Decision to Hold the Second Vatican Council”.
http://www.catholicculture.org/culture/library/view.cfm?recnum=3233
http://www.papalencyclicals.net/Paul06/p6closin.htm.
([6]) Đạo vô chung thủy, Giáo hữu hậu tiên. (…) Trạm tịch chân thường, Đạo
dã. Truyền pháp độ nhân, Giáo dã. Đạo chi vị thể, tuy kinh vô số kiếp, vị thường
thiểu biến. Giáo chi vi dụng, hữu thời nhi phế, hữu thời nhi hưng. 道無終始, 教有後先. (…) 湛寂真常, 道也. 傳法度人, 教也. 道之為體, 雖經無數 劫未常少變. 教之為用, 有時而廢, 有時而興. (金蓮正宗記)
http://nhantu.net/TrietHoc/LecomteDuNouy/LecomteDuNouy3-1.htm
([8]) “The particular forms,
doctrines, and institutions through which the religious needs and experiences
of some people have been expressed may become obsolete, and their continuance
often becomes detrimental to healthy religion.” Archie J. Bahm: The World’s
Living Religions. New York :
Nxb Dell, 1964, p. 14.
([9]) “In order that they may
be able to bear more fruitful witness to Christ, let them be joined to those
men by esteem and love; let them acknowledge themselves to be members of the
group of men among whom they live; let them share in cultural and social life
by the various undertakings and enterprises of human living; let them be
familiar with their national and religious traditions; let them gladly and
reverently lay bare the seeds of the Word which lie hidden among their
fellows.”
http://www.vatican.va/archive/hist_councils/ii_vatican_council/documents/vat-ii_decree_19651207_ad-gentes_en.html
([10]) There are many ways to
salvation and that all religions should have equal rights. … Christians must
search with others to find the truth.
http://www.catholicapologetics.info/modernproblems/vatican2/renew2.html
► Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện,
xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý
đạo hữu.