Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

101/4. CÂU CHUYỆN Ở VỆ LONG TRUNG / GIỮ LỬA CHO NHAU



CÂU CHUYỆN Ở VỆ LONG TRUNG

Do nhã ý của quý anh lớn Cơ Quan Phổ Tế Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, tôi lần đầu tiên đặt chân đến Quảng Ngãi để hôm nay có cơ duyên viếng thăm thánh thất Vệ Long Trung, và được hân hạnh trò chuyện với quý chức sắc, chức việc, cùng quý huynh tỷ tín hữu trong họ đạo.
Với bề dày năm mươi mốt năm lịch sử, họ đạo Vệ Long Trung đã trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, có lúc thánh thất tan nát vì đạn bom, rồi thêm ba thập niên liên tục tu học, hành đạo trong hoàn cảnh lẻ loi đơn độc vì bên trên không có giáo hội dắt dìu nâng đỡ. Nhưng, bất chấp tất cả những trở ngại hay thiệt thòi đó, họ đạo Vệ Long Trung vẫn bền bỉ trụ vững, và còn phát triển.
Chúng ta tin rằng tấm lòng những người con áo trắng nơi đây luôn luôn được Ơn Trên chứng giám. Chẳng hạn, trong đàn cơ ngày 12-7 Mậu Thân (Thứ Tư 04-9-1968) tại thánh thất Vệ Long Trung, Đức Giáo Tông Đại Đạo Lý Thái Bạch dạy:
“Nơi cảnh Vệ Long Trung nằm vào thôn quê địa cốc, nhưng lòng chư hiền đã đủ đầy nhiệt tâm với Đạo thì dù nơi bùn sình Bần Đạo cũng đến với chư hiền.”
Trước khi được đến đây để tận mắt nhìn thấy thánh thất Vệ Long Trung khang trang và đẹp đẽ như thế này, thì năm ngoái tôi đã được nhìn thấy tấm ảnh chụp thánh thất rất khéo, trông rất mỹ miều, do Ban Cai Quản gởi tặng để làm bìa cho giai phẩm Đại Đạo Văn Uyển tập Hanh (số 14) phát hành vào Quý Hai năm 2015. Nhân đây, tôi xin nói phớt qua về loạt sách Văn Uyển.
Sau khi Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo ra đời được ba năm rưỡi, thì đầu năm 2012 tôi quyết định chủ biên Đại Đạo Văn Uyển, phát hành mỗi quý một tập.
Văn Uyển có mục đích tạo nên khu vườn chung để tín hữu Cao Đài gần xa góp mặt, cùng nhau chia sẻ các sáng tác thơ văn nhạc họa, các bài nghiên cứu khảo luận, đồng thời giới thiệu hình ảnh và lịch sử các thánh sở trong cộng đồng Cao Đài, v.v…
Bởi thế, năm ngoái tôi rất vui khi hiền huynh Lễ Sanh Nguyễn Văn Hiếu, nguyên Trưởng Ban Cai Quản, đã gởi cho Văn Uyển số 14 (năm 2015) bài viết Lược Sử Họ Đạo Vệ Long Trung.
Bài viết rất khéo, gọn ghẽ, mà chứa nhiều thông tin. Tôi nghĩ rằng sau khi in bài viết của hiền huynh Lễ Sanh Nguyễn Văn Hiếu trên Văn Uyển, đã có thêm hàng ngàn người biết được quá trình hình thành và phát triển của họ đạo chúng ta, từ buổi ban sơ cho tới hôm nay.
Đầu năm 2016, tôi mở thêm blog Đại Đạo Văn Uyển và đã đăng tải hết nội dung mười tám tập Văn Uyển lên Internet. Như thế, bạn đọc khắp nơi trong nước Việt Nam và hải ngoại nếu quan tâm tìm hiểu, đều rất dễ dàng tiếp cận được hình ảnh và lược sử thánh thất Vệ Long Trung.
Tôi ước mong rằng trong thời gian tới, Văn Uyển sẽ được nhận thêm bài viết từ họ đạo Vệ Long Trung, để những thông tin về sinh hoạt tu học, hành đạo của tín hữu nơi đây được chia sẻ rộng khắp trong cộng đồng áo trắng Cao Đài chúng ta, qua cả hai phương tiện là sách in và Internet.
Trở lại với bài viết Lược Sử Họ Đạo Vệ Long Trung, qua phần trình bày của hiền huynh Lễ Sanh Nguyễn Văn Hiếu, tôi biết rằng thánh thất Vệ Long Trung hiện nay tọa lạc tại thôn Mỹ Hòa, xã Nghĩa Mỹ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, trên khoảnh đất rộng 3.000m2 đã có từ năm 1959, do tiền bối Lê Quảng và gia đình hai người cháu nội của tiền bối hiến cúng.
Năm 1960, thánh thất Vệ Long Trung được thành lập với hai mươi lăm gia đình.
Lần xây dng đầu tiên kéo dài bốn năm. Ngày 15-4 Giáp Thìn (Thứ Ba 26-5-1964) họ đạo khánh thành ngôi tam đài Vệ Long Trung bê tông cốt thép kiên cố.
Trong buổi sơ ngộ hàn huyên với hiền huynh Đầu Họ Đạo (Thái Lễ Sanh Nguyễn Văn Bá) và hiền huynh Phụ Tá Đầu Họ (Thái Lễ Sanh Nguyễn Hữu Hòa), tôi được biết rằng thuở xưa họ đạo rất phân vân giữa ba danh xưng Vệ Long Giang, Vệ Long Nguyên,Vệ Long Trung. Họ đạo thành tâm cầu nguyện rồi bốc thăm, chọn được mỹ hiệu Vệ Long Trung. Tôi còn được hai vị Thái Lễ Sanh cai quản họ đạo cho biết lá phướn của thánh thất Vệ Long Trung mang hai mươi hai chữ do Đức Lý Thái Bạch giáng cơ ban ơn: Ngọc chiếu huyền vi vệ pháp long môn khai chánh giáo, điển quang cơ xảo trung dung Đại Đạo chuyển Kỳ Tam.
Sau khi khánh thành thánh thất, trong tám năm kế tiếp, họ đạo có hơn một trăm gia đình. Bấy giờ chiến tranh đang leo thang khốc liệt. Sáng ngày 10-8 Nhâm Tý (Chủ Nhật 17-9-1972), đạn pháo bay đến thánh thất Vệ Long Trung, làm cho ngôi tam đài sụp đổ hoàn toàn.
Đầu năm 1973, thánh thất được y dựng lần thứ hai trên nền cũ, kích thước như trước. Sau hai mươi tháng xây dựng, vào ngày 15-7 Giáp Dần (Chủ Nhật 01-9-1974) họ đạo làm lễ an vị, nhưng phần Hiệp Thiên Đài còn dang dở.
Thánh thất Vệ Long Trung trước kia trực thuộc Giáo Hội Cao Đài Thống Nhất (ở Sài Gòn). Sau khi Giáo Hội này giải thể vào năm 1976, họ đạo Vệ Long Trung vẫn bền bỉ sinh hoạt độc lập trong ba mươi năm.
Cách nay mười năm, vào ngày 15-4 Bính Tuất (Thứ Sáu 12-5-2006), thánh thất Vệ Long Trung quy hiệp Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Năm 2011 Hội Thánh chấp thuận cho họ đạo xây dựng lại thánh thất.
Lần xây dựng thứ ba dài gần bốn năm. Thánh thất khánh thành ngày 25-01 Ất Mùi (Chủ Nhật 15-3-2015).
Như vậy họ đạo Vệ Long Trung đã có năm mươi mốt năm lịch sử, với ba lần xây dựng thánh thất. Từ hai mươi lăm gia đình tín đồ vào năm 1960, đến năm 2015 họ đạo có được một trăm tám mươi gia đình với gần bảy trăm tín hữu.
Những con số chúng ta vừa nhắc tới thật đáng mừng. Nhìn tòa tam đài Vệ Long Trung kiên cố lòng chúng ta thật vui. Những thành tựu của họ đạo hiện tại khiến chúng ta cần nghĩ xa, nhìn xa thêm để phát huy hơn nữa những gì đang có hôm nay.
Muốn làm được như vậy, tôi nghĩ rằng mỗi một nhân sự trong họ đạo, mỗi một thành viên trong thánh thất này, không phân biệt ai với ai, chúng ta luôn luôn cần nhờ thánh giáo soi lối, thánh ngôn dắt dìu cho từng bước đi.
Giai đoạn hiện thời rõ ràng chúng ta thiếu đàn cơ để được thọ nhận thánh giáo mới. Tuy nhiên các thánh giáo do các tiền khai Hội Thánh Truyền Giáo tiếp nhận từ giữa thập niên 1930 và nhiều năm kế tiếp vẫn còn đó, vô cùng phong phú. Phần lớn thánh giáo ấy đã được kết tập thành bộ Thánh Truyền Trung Hưng.
Thử hỏi những lời Ơn Trên dạy trong Thánh Truyền Trung Hưng có cũ kỹ không? Có lỗi thời không? Câu trả lời là không. Dứt khoát là không. Bởi lẽ tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, ngày 20-8 Mậu Thìn, Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch dạy:
Thánh giáo thiên thu chẳng lỗi lầm
Chơn tông vạn thế rạng thinh âm
Như vậy chân lý trong Thánh Truyền Trung Hưng của chúng ta luôn luôn là chân lý vượt thời gian. Hôm nay hay mai sau, chúng ta đều có thể tìm thấy trong đó nguồn ánh sáng nhiệm mầu soi đường dẫn lối chúng ta tu học và hành đạo hiệu quả, đúng đắn.
*
Thật vậy, ôn học lại Thánh Truyền Trung Hưng chúng ta thấy Ơn Trên đã ban lời vàng tiếng ngọc chỉ bày, hướng dẫn người tín hữu miền Trung từng ly từng tý để con đường tu học và hành đạo được đúng theo chánh pháp Kỳ Ba.
Ai trong chúng ta nếu trước đây đã từng say mê đọc các pho truyện Tàu do Tín Đức Thư Xã ở Sài Gòn xuất bản, thì hẳn còn nhớ rằng thời xưa các vị tôn sư mỗi khi cho phép đệ tử được xuống núi hành đạo độ đời, đều ban trao cho đồ đệ một cẩm nang (túi gấm). Đến khi gặp trở ngại không đủ sức vượt qua, thì đệ tử sẽ mở cẩm nang, liền thấy sư phụ mình đã dặn dò sẵn cách thức thoát ra khỏi bế tắc.
Chẳng hạn, Tôn Tẫn khi bị Bàng Quyên mưu hại, không biết thoát thân ra sao, bèn mở túi gấm do sư phụ là Quỷ Cốc Tiên Sinh trao cho, thấy vỏn vẹn một chữ cuồng. Hiểu ý thầy, Tôn Tẫn bèn giả điên giả cuồng, nhờ thế thoát khỏi âm mưu tàn độc của Bàng Quyên.
Hiện nay chúng ta đang tu học, hành đạo Kỳ Ba. Mỗi người trên đường góp phần thực thi sứ mạng trung hưng của Hội Thánh Truyền Giáo chẳng khác gì những đệ tử xuống núi trong truyện Tàu, và cẩm nang của chúng ta chính là bộ Thánh Truyền Trung Hưng vậy.
Thường ngày nghiền ngẫm Thánh Truyền Trung Hưng và ghi nhớ đầy đủ lời Ơn Trên bảo ban trong đó, chúng ta có thể áp dụng những khuôn vàng thước ngọc ấy cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho họ đạo mình.
Quả thật Thánh Truyền Trung Hưng dạy rất nhiều điều cần thiết. Riêng trong lãnh vực cai quản và tu học ở một thánh thất, Thánh Truyền Trung Hưng giúp chúng ta nhiều lời dạy rất hữu ích.
1. Chẳng hạn, đàn cơ tại thánh thất Tịnh Quang, ngày 08-12 Mậu Tuất (Thứ sáu 16-01-1959), Đức Lý Giáo Tông dạy cho chúng ta thấy lý do sâu xa vì sao người chức sắc, chức việc ở một thánh thất lại sút kém uy thế hơn khi so sánh với vị Linh Mục ở một nhà thờ, hay vị Hòa Thượng ở một ngôi chùa. Đức Lý dạy:
“Các Chánh, Phó Trị Sự thiếu tôn kỉnh kẻ quyền hành chức sắc ở thánh thất, nên đạo hữu cũng coi người Chánh, Phó Trị Sự là thường. Bởi mình không tôn trọng quyền pháp, kính nể cấp trên để làm gương cho cấp dưới, thành ra một tổ chức không được tôn nghiêm.
Ở nhà thờ có vị Linh Mục. Ở chùa Phật có vị Hòa Thượng. Ở thánh thất có vị Đầu Họ Lễ Sanh. Quyền ấy ngang nhau mà trông vào vị Linh Mục, Hòa Thượng quan trọng vô cùng, dòm lại thánh thất ta, người Đầu Họ quá bình dân kém thế!”
Căn cứ theo lời dạy của Đức Lý, chúng ta thấy bởi vì thiếu quyền pp mà tôn ti trật tự, sự kỉnh vì ở thánh thất không được tôn trọng, ảnh hưởng xấu tới sự thành công và phát triển của họ đạo.
Muốn sửa chữa khuyết điểm ấy, chúng ta cần phải làm gì? Câu trả lời là phải tôn trọng quyền pháp. Muốn cho quyền pháp được tôn trọng, mọi người trong họ đạo cần phải thông hiểu luật Đạo. Muốn hiểu thông luật Đạo thì phải tổ chức giảng dạy, học tập luật Đạo trong họ đạo.
Những gì vừa nói đó, chúng ta đều tìm thấy trong Thánh Truyền Trung Hưng. Thật vậy, ở đây chúng ta dẫn chứng hai trường hợp:
a. Tại thánh thất Nam Trung Hòa, ngày 27-7 nhuần Mậu Dần (Thứ Ba 20-9-1938), Đức Trường Canh Thái Bạch dạy:
“Lão dạy từ đây mỗi thánh thất phải giảng lut Đo cho rành rẽ, đặng cho chúng sanh noi đó mà thi hành.”
b. Hai tháng sau đó, tại thánh thất Trung Thành, ngày 01-10 Mậu Dần (Thứ Ba 22-11-1938), Đức Quan Thánh Đế Quân dạy:
“Các thánh thất ngày hôm nay mở rộng ra cả, nghĩa là để cứu lấy nhơn sanh một cách thực tế, rồi sau sẽ tùy duyên. (…) Các nơi đều phải giảng Tân Lut.”
2. Đứng đầu một họ đạo là vị Đầu Họ. Nhưng nếu bản thân vị này, hoặc tín hữu trong họ đạo không hiểu rõ Đầu Họ Đạo quan trọng như thế nào thì hoặc chính vị Đầu Họ Đạo tự coi nhẹ trọng nhiệm của mình, hoặc tín hữu thiếu tôn trọng Đầu Họ Đạo.
Bởi thế, tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 16-4 Đinh Dậu (Thứ Tư 15-5-1957), Đức Ngôi Hai Ngô Minh Chiêu dạy:
“Người Đầu H là người rất quan trng, được Thầy ban quyền ban pháp, chăm nom trc tiếp đàn chiên. Quyền hành ấy rất là trọng hệ…”
Đức Ngô Đại Tiên dạy tiếp:
“Người Đầu Họ cầm giữ bộ đạo, bộ đời thì cái hồn nhơn sanh đã gởi vào tay quyền pháp của người chức sắc có sứ mạng. Người chức sắc ấy được hồng ân Thiên tứ quyền pháp tối linh là Tứ Bửu.(1)
Hội Thánh đã chia quyền chăm nom sửa trị nền đạo một nơi thì nhơn sanh còn mất, vui khổ bởi người. Toàn đo đều núp dưới ân oai quyền pp của người. Đạo hữu chết, người có quyền cầu xin siêu độ. Sanh, đau, già, khổ đều do người thay Thầy và Hội Thánh mà cứu. Đạo hữu trong họ thuộc trọn quyền người xin tha xin phạt. Nếu đau, người cho phép chữa bnh; tai nạn nghiệp chướng, người cho phép giải oan; lầm lỗi, người tẩy tnh; khờ dại, người khai đàn; biết tùy sự, tùy khả năng mà phân công an vị; giáo hóa giác ngộ là trấn thần; cứu đói trợ nghèo, chia đau sớt buồn, xây dựng quyền sống thế gian là chẩn bt, chẩn bạt cho phần hồn mới liễu kiếp. Nên quyền pháp người Đầu H trở nên quan trng.” [1]
3. Mối quan hệ giữa Đầu Họ và tín đồ trong họ đạo là mối quan hệ giữa người chăn chiên và đàn chiên. Trong thánh giáo tại Trung Hưng Bửu Tòa vừa dẫn trên, Đức Ngô Đại Tiên dạy rõ:
“Chuồng chiên đã giao cho chăn giữ không nên nhốt chiên mãi trong chuồng, bỏ tù, phạt đói (nỗi sợ mất đạo) hoặc thả đi rong cương, không theo coi chừng chăm sóc, hướng dẫn nơi ăn chỗ núp (phó mặc đạo hữu).
Cũng như các con chiên bị bịnh không đi ăn được mà không cỏ nuôi thân (chẩn tế) nhiều con bị ghẻ chốc lở lói không kiếm thuốc đắp dặt cho lành (trị bịnh), đám chiên nhơ bẩn bùn lầy không lo tắm rửa (tẩy tịnh) thì nào khác chi đạo hữu trong họ đạo nhiều kẻ nhơ bẩn phạm phải quy giới, đạo pháp mà không làm các pháp trên để cứu độ về phần hồn cũng như đời sống.”
4. Thánh thất rất quan trọng nhưng không phải người đạo Cao Đài nào cũng hiểu rõ điều này. Chức sắc, chức việc nếu chưa tròn trọng nhiệm ở thánh thất cũng vì không thấy thánh thất rất quan trọng. Các tín đồ lợt lạt với thánh thất cũng vì không thấy được tầm quan trọng rất mực của thánh thất. Để chấn chỉnh sai lầm này, các Đấng nhiều lần giáng cơ dạy bảo. Chẳng hạn hai trường hợp sau đây:
a. Tại tỉnh đạo Quảng Nam, ngày 27-01 Bính Thân (Thứ Sáu 09-3-1956), Đức Cái Thiên Cổ Phật dạy:
“Thánh thất là nhà chung, là cơ sở của nhơn sanh mà cũng là Bát Quái Đài tại đó. Nên có câu:
Ai cũng muốn Tây phương lạy Phật
Sao không lo thánh thất chầu Thầy?
thánh thất là Bch Ngọc Kinh của cấp nhỏ.”
b. Tại thánh thất Minh Đức, ngày 03-3 Bính Thân (Thứ Sáu 13-4-1956), Đức Phan Thanh Giản dạy:
“Các hiền có hiểu chữ thánh thất nghĩa là chi không? Thánh thất là một chỗ ngự trụ to lớn của các Bậc thiêng liêng và cũng là một nơi học hỏi của tín đồ tất cả. Nó là một nơi của tín đồ giao cảm cùng Thần Tiên mà cũng là nơi Thần Tiên dạy đo cho tín đồ.”
5. Vì thánh thất là một nơi học hỏi của tín đồ cho nên tại thánh tịnh Thanh Quang, ngày 27-8 Mậu Dần (Thứ Năm 20-10-1938), Đức Vân Hương Thánh Mẫu nhắc nhở:
“Mỗi tháng có những ngày vía lễ, hãy đến thánh thất nghe Ơn Trên dạy, bạn hữu bày, các hướng đạo giảng. Nghe thì phải nghiệm đi suy tới. Về nhà phải nhớ luôn luôn.”
Nhưng muốn tín đồ đến thánh thất để học đạo thì thánh thất phải thường xuyên tổ chức giảng đạo.
Do đó, ngay khi đạo Cao Đài vừa ra đời (1926), trong Tân Luật (Ðạo Pháp, Chương III, Điều Thứ Mười Chín) đã sớm có quy định như sau:
“Một tháng hai ngày sóc vọng, bổn đạo phải tựu lại thánh thất sở tại mà làm lễ và nghe dạy.”
Mặc dù luật Đạo quy định rõ ràng như vậy, nhưng rất nhiều thánh sở Cao Đài trong cả nước mấy mươi năm qua đều không tổ chức được việc giảng đạo hàng tháng hai kỳ cho tín đồ.
Bởi vậy, có không ít tín đồ tuy là con nhà đạo dòng nhưng lại hoàn toàn mù mờ về những hiểu biết căn bản của đạo Cao Đài. Tôi kể câu chuyện có thật này để chúng ta suy gẫm, nhưng xin giấu tên địa phương và Tòa Thánh nơi đó.
Sáng Thứ Hai 04-7 vừa qua tôi bay ra Đà Nẵng để dự lễ kỷ niệm sáu mươi năm thành lập Hội Thánh Truyền Giáo. Tình cờ, quanh chỗ ngồi của tôi là một nhóm các chị các cô cũng bay ra Đà Nẵng du lịch. Nghe các hành khách này rôm rả trò chuyện, biết họ là người huyện H, tỉnh T, tôi vui miệng hỏi một chị chừng ba mươi ngoài ngồi ghế bên cạnh: “Chị có theo đạo Cao Đài không?”
Chị ấy vui vẻ đáp: “Dạ, con là Cao Đài đạo dòng. Ông ngoại con là Lễ Sanh.”
Tôi hỏi tiếp: “Hay quá! Cụ Lễ Sanh thuộc phái nào?”
Chị nói không biết. Tôi hỏi: “Cụ mặc áo đạo màu gì?”
Chị ấy đáp: “Màu xanh.”
Tôi cười: “Vậy thì cụ thuộc phái Thượng.”
Con nhà Cao Đài đạo dòng mà mờ mịt như thế, chúng ta có thấy se lòng không? Bởi vậy, tôi rất mừng rằng Hội Thánh Truyền Giáo có Ban Phổ Tế ở thánh thất, vừa có Đoàn Phổ Tế Lưu Đng với tính cách trợ giảng cho nhiều thánh thất, đó là một ưu điểm; rồi hai năm nữa, khóa Mt h Hoằng Giáo tốt nghiệp, việc dạy đạo, giảng đạo ở các thánh thất càng phát triển, đó quả là những điểm sáng của Hội Thánh Truyền Giáo chúng ta. Đáng vui thay!
6. Ngày nay, khi đi đến các thánh thất Cao Đài, chúng ta thường thấy có mặt nhiều gương mặt nữ phái. Các nữ tín đồ Cao Đài ở nhiều thánh thất lắm khi lại chiếm phần trội hơn hẳn nam phái.
Chúng ta biết rằng khi đạo Cao Đài ra đời vào đầu thế kỷ 20, thì xã hội Việt Nam còn nặng óc trọng nam khinh nữ. Giáo lý Cao Đài đã dành một nội dung rất phong phú để giải thoát cho nữ phái bằng cách dẫn dắt nữ phái vào đường tu học, hành đạo; vì chỉ có tu hành chứng quả mới là con đường giải thoát tuyệt đối cho chúng ta nói chung, và cho các ái nữ của Đức Mẹ Vô Cực Từ Tôn nói riêng.
Để gần gũi các nữ tín hữu, ngoài Đức Diêu Trì Kim Mẫu và Đức Quan Âm Bồ Tát, còn có các Đấng Thánh Mẫu, Thánh Nữ, Tiên Nương, Thần Nữ, v.v… lần lượt lâm đàn dạy dỗ nữ phái Cao Đài. Đây quả là một đặc điểm nổi bật của giáo lý Tam Kỳ Phổ Độ khi so sánh với kinh điển các tôn giáo bạn.
Do đó, quý đạo tỷ môn sanh Hội Thánh Truyền Giáo có thể tìm thấy trong Thánh Truyền Trung Hưng rất nhiều đề mục hướng dẫn nữ phái tu học và hành đạo để lập công bồi đức ngõ hầu trở về với Thầy Mẹ.
Tôi nghĩ rằng nếu tập thể nữ phái tại mỗi thánh thất có thể tổ chức đnh k hàng tháng những buổi hc tập các bài thánh giáo dạy riêng nữ phái được trích trong Thánh Truyền Trung Hưng, thì quý đạo tỷ sẽ thấy rất gần gũi với tâm trạng, hoàn cảnh đa đoan của người phụ nữ Việt Nam vừa lo gồng gánh việc nhà, đảm đương việc xã hội, vừa còn phải dành thời gian để tới thánh thất tu học.
Trong câu chuyện hôm nay, tôi thử nêu ra một số ít đề mục dạy nữ phái để chúng ta tham khảo. Hy vọng rằng từ một ít trích dẫn tiêu biểu này, quý đạo tỷ sẽ cảm thấy hứng thú để rồi sẽ tìm cách tổ chức học tập Thánh Truyền Trung Hưng với những phần dạy riêng cho nữ phái.
a. Trước hết, chúng ta thấy Ơn Trên rất thương cảm cho thân phận phụ nữ phải chịu đựng quá nhiều thiệt thòi do ảnh hưởng của tập tục xã hội lâu đời.
Tại thánh thất Trung An, ngày 14-7 Đinh Hợi (Thứ Sáu 29-8-1947), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
“Bấy lâu nữ phái các em vẫn không ra khỏi tam tùng, mà tùng trong xó bếp góc nhà, tùng ra trước ngõ, tùng trước rặng rau, tùng sau luống sắn, có chi là rỗi rảnh để bàn đạo đức tu trì. Bần Đạo lại nhìn vào đó càng thương hại cho tấm thân nhi nữ quá phải nhọc nhằn! Cuộc đời nhi nữ quá đau thương!”
Tám năm sau, tại thánh thất Thái Hòa, ngày 13-9 Ất Mùi (Thứ Sáu 28-10-1955), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
“Hiện nay có hiền nữ còn bao nhiêu sự đời trói cột: Nào con nào chồng, ruộng vườn, nhà cửa, trâu heo, suốt tháng tối ngày bao nhiêu vật ấy sai sử, cứ vâng vâng dạ dạ, phục vụ mãi mà không chán không lờn. Ngoại cảnh: Lợi danh, đỉnh chung, vật chất câu nhử cuốn lôi. Nội giới: Lục dục thất tình sai sử, mà các hiền nữ nào biết nào ngờ. Thân phận khổ đau, linh hồn khốn đốn, nên bước ra nửa bước đã nhớ lại nhà, vắng một phút một giây sợ của tiền trộm đạo, thì sao hưởng được hạnh phúc công bằng, sao thấy được tự do chơn lý.”
b. Những bất công áp đặt lên thân phận phụ nữ và óc trọng nam khinh nữ đã bắt rễ từ lâu đời khiến cho nữ phái thường có mặc cảm tự ti, thấy mình thua kém nam giới từ trong nhà ra ngoài xã hội, kể cả khi bước chân vào thánh thất.
Để giúp nữ phái xóa bỏ mặc cảm tự ti, các Đấng thiêng liêng luôn luôn nhắc nhở nữ phái nhớ rằng gái cũng như trai, nữ cũng như nam; vì vậy trên đường tu học và hành đạo thì nữ và nam đều bình đẳng và đồng hành trọng trách với nhau.
Tại thánh tịnh Thanh Quang, ngày 03-01 Kỷ Mão (Thứ Ba 21-02-1939), Đức Trưng Trắc Thánh Nương dạy:
Biết đâu gái cũng như trai
Cũng con Thượng Đế hai vai cũng đồng.
Tại thánh thất Trung Thành, 08-01 Mậu Tý (Thứ Tư 17-02-1948), Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo dạy:
Đồng thời gái cũng như trai
Chớ mong nhụt bước, chớ phai tấc lòng.
Tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 02-01 Bính Thân (Thứ Hai 13-02-1956), Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo dạy:
Gánh đạo từ đây chung nặng nhọc
Độ đời thì gái cũng như trai.
Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo dạy thêm:
Trai gái cùng chung một bước đường
Dãi dầu nhiệm vụ với mười phương.
Nữ phái được khuyên dạy hãy bỏ đi mặc cảm, bỏ thói quen rụt rè để mạnh dạn gánh vác việc phổ độ quần sanh. Tại thánh thất Trung An, ngày 20-7 Đinh Sửu (Thứ Tư 25-8-1937), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Bớ con nữ lo đi cho kịp
Này trẻ thơ kíp kíp thi hành
Làm sao ra độ quần sanh
Làm sao nữ phái đắc thành đó con!
c. Nữ phái muốn gánh vác việc phổ độ quần sanh như lời Đức Mẹ dạy thì nữ phái phải được sắm sửa mt hành trang, gầy dựng mt vốn liếng để đủ sức đảm đương.
Hành trang đó, vốn liếng đó muốn có thì nữ phái hãy thực hành pháp môn Tam Công của Cao Đài gồm có công quả, công trình, công phu.
Khuyên nữ phái làm công quả, tại thánh tịnh Thanh Quang, ngày 25-4 Mậu Dần (Thứ Ba 24-5-1938). Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Con nữ phái ráng tu giỏi giỏi
Tu làm sao thoát khỏi Diêm Phù
Tu vầy mới gọi rằng tu
Tu sao công quả ngàn thu hưởng đời.
Công phu ở Hội Thánh Truyền Giáo là pháp môn luyện châu do Đức Ngô Đại Tiên truyền dạy. Nữ phái cũng được khuyến nhủ phải thực hành công phu. Tại thánh tịnh Thanh Quang, ngày 25-01 Mậu Dần (Thứ Năm 24-02-1938), Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Giáng đàn dạy dỗ thấp cao
Bớ chư tín nữ chớ xao lòng vàng
Cùng nhau chị hỏi em han
Chị em han hỏi tìm đàng chơn tu
Tu cần rèn lấy công phu
Công phu rồi đặng đường tu mới mầu.
Tại thánh thất Kim Quang Minh Đài, ngày 10-12 Ất Mùi (Chủ Nhật 22- 01-1956), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy nữ phái song tu công quả, công phu:
Con ôi! Nữ phái tiến lên
Công phu, công quả xây nền Thánh nhi.
Về công trình thì sao? Công trình tức là phần luyện kỷ. Nội dung luyện kỷ có nhiều đề mục, ở đây chúng ta tạm nêu ra một vài điều tiêu biểu.
- Nữ phái được dạy thay vì tụm nhau chuyện phiếm, hãy tiết kiệm thời gian, dành nhiều giờ cho việc tu học. Tại thánh thất Kim Quang Minh Đài, ngày 10-12 Ất Mùi (Chủ Nhật 22- 01-1956), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy nữ phái:
Đừng nhàn rỗi xúm ngồi đùa bỡn
Kiệm những giờ chơi giỡn lập công
Con ôi! Quả phúc lo trồng
Con ôi! Khuya sớm dọn lòng thờ Cha.
- Ôn lại lịch sử đạo Cao Đài, chúng ta nhớ rằng vào năm 1934, Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn thành lập Nữ Chung Hòa Phái. Sau đó, vào khoảng cuối thập niên 1960 thì Đức Mẹ thành lập Nữ Chung Hòa. Điều này phải chăng hàm ngụ ý nghĩa là nữ phái với bản tánh mềm mỏng, hiền dịu, nhu thuận của mình xứng đáng làm yếu tố tích cực góp phần xây dựng sự hòa hiệp trong cộng đồng Cao Đài nói chung, trong từng thánh thất nói riêng.
Muốn làm được chức năng xây dựng sự hòa hiệp thì bản thân mỗi nữ tín đồ phải sống hòa hiệp, thuận thảo với chị em bạn đạo ngay trong thánh thất của mình.
Tại Đa Hòa, ngày 11-3 Bính Tý (Thứ Năm 02-4-1936), Đức Lê Sơn Thánh Mẫu dạy:
Khuyên nữ nhi nên gìn cho trọn
Hiệp chị em lỗi mọn thương nhau
Chẳng nên lời chuốt tiếng bào     
Chê bai kích bác nên màu lạt phai.
Tại thánh tịnh Thanh Quang, ngày 25-02 Mậu Dần (Thứ Bảy 26-3-1938), Đức Kim Mẫu Từ Tôn dạy:
Này trẻ con ôi có thấu chăng?
Chị em dìu dắt tập nhau quen
Trên hòa dưới thuận tên còn mãi
Mãi mãi công cao đức hạnh tăng.
- Nếu tập thể nữ phái trong một thánh thất đã thuận thảo, hòa hiệp với nhau thì tình chị em bạn đạo càng thêm gắn bó, dễ dìu dắt nhau, dễ nâng đỡ nhau, đem chỗ mạnh ở chị này bù đắp cho chỗ yếu ở chị khác, giúp nhau cùng tiến bộ trên đường tu học và hành đạo lập công.
Tại thánh thất Trung An, ngày 20-7 Đinh Sửu (Thứ Tư 25-8-1937), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Nữ phái này con có biết chưa
Chị em dìu dẫn sớm cùng trưa
Con ôi! Bể khổ muôn điều thảm
Khuyên khá bền tâm chớ thớt thưa.
Tại thánh tịnh Thanh Quang, ngày 25-3 Mậu Dần (Thứ Hai 25-4-1938), Đức Vô Cực Từ Tôn dạy:
Con ôi! Giữ Đạo thờ Thầy
Chị em khắn khít mong ngày ân ban.
Mai sau về nước Thiên Đàng
Sớm hôm có Mẹ bình an muôn đời.
Tại thánh thất Thái Hòa, ngày 15-9 Ất Mùi (Chủ Nhật 30-10-1955), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Chị em nâng đỡ lẫn nhau
Trước dù chậm chạp thì sau nhắc chừng.
Các đề mục dạy nữ phái trong Thánh Truyền Trung Hưng rất phong phú, gồm nhiều nội dung khác nhau để huấn luyện nữ phái trở nên đạo hạnh có tâm, có đức, có tài. Tuy nhiên, trong khuôn khổ một buổi nói chuyện nho nhỏ, tôi chỉ có thể trích dẫn rất ít để chúng ta cùng nhau xác định Thánh Truyền Trung Hưng là một món báu vô giá mà Ơn Trên ban trao cho tín hữu Hội Thánh Truyền Giáo.
7. Ngoài nữ phái, trong sinh hoạt mỗi họ đạo thuộc Hội Thánh Truyền Giáo còn có giới trẻ, tức là các thanh thiếu niên. Đây là tương lai của đạo Cao Đài, là thế hệ tiếp nối lớp đàn anh đàn chị để giữ cho con đường Trung Hưng được vững bền và phát triển theo thời gian.
Tại thánh thất Trung Thành, ngày 15-01 Canh Thìn (Thứ Năm 22-02-1940), Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo dạy:
 “Chào các thanh niên. Giờ nầy Bản Thánh đến để lời phân trần cặn kẽ bổn phận làm người và cái trọng nhiệm của tín đồ Đại Đạo, nhất là danh dự của lớp người tuổi trẻ.
Tuổi trẻ trung là cái tuổi ham làm việc, hăng say với nhiệm vụ, xông pha vì đạo nghĩa, dày dạn với phong trần, để lo xốc gánh nhơn sanh, đưa dân tộc yếu hèn nhu nhược đến một bước tự cường tự chủ.”
Tại thánh thất Nam Trung Hòa, ngày 06-7 Mậu Dần (Thứ Hai 01-8-1938), Đức Chí Tôn dạy:
Thầy đã nói tận tường con rõ
Muốn đời sau đời có bình yên
Đời nay phải cậy thanh niên
Thanh niên hiện tại lưu truyền đời sau.
Thanh niên phải dồi trau đạo đức
Thanh niên cần trí thức cho cao
Thanh niên làm chủ đời sau
Đời sau hư tệ tại màu thanh niên.
Đời vị tấn bình yên thạnh trị
Bởi thanh niên có chí lo đời
Thanh niên sanh đứng trong trời
Thanh niên để tạo cái đời thanh niên.
Hôm nay ở Vệ Long Trung tôi trích dẫn Thánh Truyền Trung Hưng về thanh thiếu niên vắn vỏi như thế, nhưng có thể minh chứng rằng Thánh Truyền Trung Hưng rất phong phú và đầy đủ, quả thật là một cẩm nang tu học, hành đạo cho mọi thành phần tín hữu trong một họ đạo.
Do đó, chúng ta cần có chương trình tổ chức thường xuyên học tập Thánh Truyền Trung Hưng đều khắp các họ đạo. Một lần nữa, chúng ta nhìn nhận rằng Hội Thánh Truyền Giáo có ưu điểm là thánh thất nào cũng có Ban Phổ Tế, năm nay lại có thêm Đoàn Phổ Tế Lưu Động để yểm trợ cho các họ đạo, hai năm nữa quý anh chị hạnh sinh hệ Hoằng Giáo khóa Một tốt nghiệp; như thế, chúng ta có thể vững lòng tin tưởng rằng trong thời gian không xa, việc học tập Thánh Truyền Trung Hưng sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp, từ đó sẽ tác động tích cực đến việc hành đạo tại mỗi họ đạo.
8. Trong phần đầu câu chuyện nhỏ hôm nay, tôi có bày tỏ niềm hân hoan khi nhìn thấy tòa tam đài Vệ Long Trung uy nghi đẹp đẽ.
Những năm vừa qua, giống như Vệ Long Trung, nhiều thánh thất của Hội Thánh Truyền Giáo ở nhiều địa phương khác nhau cũng lần lượt cổi bỏ xác thể cũ kỹ và mang mặc một thân hình mới xinh đẹp hơn, khang trang hơn.
Người đạo chúng ta cùng chan hòa niềm vui với nhau vì sự tốt đẹp này. Nhưng chúng ta không thể bằng lòng mãn nguyện mà tự cho phép mình dừng lại ở niềm vui ấy. Nghĩa là mỗi lần nhìn thấy một thánh thất xây mới hay tái thiết nguy nga, mỹ miều, người đạo chúng ta nên nhớ lại lời dặn dò của Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo tại thánh đường Quảng Tín, ngày 11-7 Canh Tuất (Thứ Tư 12-8-1970):
“Giờ đây, thánh đường ngoi giới đã an bài, toàn đạo hoan hỷ quay về xây dựng thánh đường nội tâm. Bởi nơi ấy Thầy hằng ngự và bốn phương dễ dàng chung về. Hãy cố gắng xây dựng thánh đường nội tâm được chắc chắn, thêm uy nghi, xán lạn.”
Thánh đường ngoại giới là Bạch Ngọc Kinh thu nhỏ.
Thánh đường nội tâm là Bạch Ngọc Kinh để Thầy, là Thượng Đế Cao Đài, ngự trị trong tâm khảm chúng ta.
Thánh đường nội tâm ấy không xây dựng bằng vật chất hữu hình mà bằng công phu tu luyện hàm dưỡng rất lâu ngày của mỗi tín đồ áo trắng.
Mỗi người tín hữu trong họ đạo không thể cô đơn trên hành trình xây dựng cho bản thân thánh đường nội tâm.
Ăn cơm có canh, tu hành có bạn. Ban Cai Quản mỗi thánh thất với quyền pháp Hội Thánh trao phó là những người giúp đỡ tín hữu trong họ đạo của mình xây dựng thành công thánh đường nội tâm.
Bởi lẽ đó, tại thánh thất Minh Đức, ngày 03-3 Bính Thân (Thứ Sáu 13-4-1956), Đức Phan Thanh Giản dạy:
“Ban Cai Quản hãy cố gắng xây đắp một thánh thể yêu thương, một tâm hồn Thượng Đế, giúp tín đồ giới giữ quy gìn, và phải xây dựng cho mọi người được một đức tin rắn rỏi, một đạo hạnh hoàn toàn để kịp thời mà đạt phẩm Thần Tiên.”
*
Thánh thất là một Hội Thánh thu nhỏ. Sự thành tựu tốt đẹp ở mỗi thánh thất góp phần tạo nên sự thành tựu to tát của Hội Thánh.
Mối tương quan yêu thương và bảo trọng quyền pháp giữa chức sắc, chức việc cùng tập thể tín hữu trong từng họ đạo quyết định những thành tựu vững chắc của thánh thất, của họ đạo.
Hội Thánh Truyền Giáo chúng ta, các họ đạo thuộc Hội Thánh chúng ta rất hữu hạnh khi có sẵn cẩm nang tu học hành đạo là bộ Thánh Truyền Trung Hưng, do Thầy Mẹ, Phật Tiên, Thánh Thần ban trao.
Các Ban Phổ Tế và Đoàn Phổ Tế Lưu Động hiện nay là những bộ phận chuyên trách đặc nhiệm truyền giáo sẽ đem Thánh Truyền Trung Hưng rao giảng cho thấm nhuần từng tâm hồn, từng cuộc đời tín hữu trong mỗi họ đạo. Như vậy lo gì chúng ta không góp phần ý nghĩa vào sứ mạng trung hưng chánh pháp Kỳ Ba cho thành tựu mỹ mãn.
Câu chuyện nhỏ hôm nay giữa tôi và họ đạo Vệ Long Trung trong buổi đầu sơ ngộ xin được làm lời nguyện cầu chung của tất cả chúng ta:
Xin cầu nguyện Vệ Long Trung luôn luôn làm sáng danh Thầy, rạng danh Đạo trong hồng ân tận độ Kỳ Ba.
Vệ Long Trung, 09-8-2016
Huệ Khài



([1]) Thiên tứ: Trời ban cho.
Tứ Bửu Pháp: Bốn pháp báu Ơn Trên ban cho Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Bốn pháp này do Đầu Họ Đạo làm, hoặc vị Lễ Sanh được Đầu Họ Đạo ủy quyền. Tứ Bửu gồm có:
(a) Khai Đạo Thông (thuộc về Hành Chánh: Tẩy Tịnh, Khai Đàn, Trấn Thần, An Vị); (b) Khai Pháp Thông (thuộc về Minh Tra: Giải Oan, Tắm Thánh); (c) Khai Nguyên Giáo Pháp (thuộc về Phổ Tế: Trị Bịnh); (d) Khai Sinh Cơ Thông (thuộc về Phước Thiện: Chẩn Tế).




 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.