Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

101/3. NGHĨ VỀ HOẰNG GIÁO CAO ĐÀI / GIỮ LỬA CHO NHAU



NGHĨ VỀ HOẰNG GIÁO CAO ĐÀI
“Ngay bây giờ các con phải lên đường với bao sứ mệnh độ đời, gieo truyền thánh đức, làm sao cho nhân sinh cảm mến giáo lý của Thầy, làm sao cho người người cảm phục.”
Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
Trung Hưng Bửu Tòa
08-6 Bính Thân (Chủ Nhật 15-7-1956)
Hôm nay tại thánh thất Trung Minh,([1]) nhân lễ khai giảng Hạnh Đường hệ Hoằng Giáo khóa Một (chương trình hai năm 2016-2018), tôi rất hân hạnh được quý chức sắc quản lý Hạnh Đường của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thương mến nên có nhã ý trao tặng tôi một cơ duyên để chia sẻ chút cảm nghĩ về sự kiện trọng đại này.
Trước hết, suy nghĩ về hai chữ hoằng giáo, tôi muốn xin được cùng nhau ôn lại ý nghĩa căn bản của hai chữ này mặc dù nơi đây ai ai cũng đều hiểu rõ.
Hoằng là mở rộng ra, làm cho lớn mạnh. Giáo là tôn giáo, và cụ thể ở đây là Cao Đài Giáo, là đạo Cao Đài.
Tôn giáo nào cũng có lúc phải trải qua những thăng trầm, biến đổi. Do đó, khi viết bài Tựa cho tác phẩm Kim Liên Chánh Tông Ký,([2]) đạo sĩ Tần Chí An (1188-1244) xưa kia đã khẳng định rằng tôn giáo hữu thời nhi phế, hữu thời nhi hưng 有時而廢, 有時而興, nghĩa là tôn giáo có lúc suy yếu, có lúc hưng thịnh.
Tôn giáo phế hưng đều do sự tác động của con người. Con người tác động tích cực thì tôn giáo hưng thịnh; con người tác động tiêu cực thì tôn giáo suy vi.
Thành thử đạo Cao Đài nói chung hay Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài nói riêng luôn luôn rất cần có những con người hoằng giáo để làm cho tôn giáo Cao Đài được hưng thịnh và phát triển vững bền.
Tôi nghĩ rằng nhiệm vụ hoằng giáo ấy không hề dành riêng cho một thành phần đặc biệt nào trong Hội Thánh.
Tôi luôn tin rằng hoằng giáo Cao Đài là bổn phận chung của từng người tín đồ Cao Đài. Tại sao vậy?
Hằng ngày tín đồ chúng ta cúng tứ thời, mà kết thúc thời cúng bao giờ cũng là nghi thức đọc Ngũ Nguyện. Hai câu đầu tiên là:
Nam mô nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.
Tôi hiểu rằng mỗi khi hứa nguyện như thế không có nghĩa là chúng ta cầu xin Ơn Trên ra tay làm giùm chúng ta việc hoằng khai đạo Cao Đài, và cũng không có nghĩa cầu xin Ơn Trên ra tay phổ độ chúng sanh giùm chúng ta.
Nói cách khác, khi quỳ trước Thiên Bàn mà xướng lên hai lời nguyện đó tức là tín đồ chúng ta hàng ngày bốn lần tự hứa nguyện với Thầy, cũng là bốn lần tự nhắc nhở bản thân phải thi hành hai bổn phận hoằng giáo Cao Đài và phổ độ nhơn sanh.
Bấy lâu nay tôi vẫn hiểu và tin bổn phận của người tín đồ Cao Đài là như vậy. Mới rồi, khi đọc quyển Hồng Ân Tận Độ ([3]) của Giáo Sư Thượng Liêm Thanh thì tôi càng thêm vững dạ rằng mình đã hiểu đúng và tin đúng.
Thật vậy, trong sách, ở trang 102, Thượng Giáo Sư Phạm Văn Liêm có chép lời dạy của Đức Cao Tiếp Văn Pháp Quân tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 30-01 Đinh Dậu (Thứ Sáu 01-3-1957), nguyên văn như sau:
Về tôn giáo, người tín đồ phải giữ đạo, truyền đạo.”
Tiếp qua trang 110-111, lại thấy Đức Cao Tiếp Văn Pháp Quân minh định:
“Bây giờ nói qua về phần truyền đạo. Phần nầy không phải riêng cho giáo sĩ truyền giáo, mà cũng không riêng cho Thiên phong chức sắc của Hội Thánh, mà là phần việc chung của mỗi tín đồ.”
Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta loại trừ chức năng chuyên biệt của quý vị giáo sĩ, hay của quý vị chuyên trách đặc nhiệm truyền giáo, hoằng giáo.
Chúng ta lúc nào cũng rất cần có một đội ngũ đông đảo quý vị chuyên trách đặc nhiệm truyền giáo, hoằng giáo. Bởi lẽ các vị này với năng lực chuyên môn của mình sẽ giúp cho tín đồ biết giữ đạo và biết truyền đạo bằng cách sống đạo giữa đời thường.
Không phải mọi người tín đồ nào cũng biết rõ bổn phận của mình là giữ đạo. Hai chữ giữ đạo mà Đức Cao Tiếp Văn Pháp Quân đặt trước hai chữ truyền đạo cho thấy đây là ưu tiên một.
Phải giữ đạo trước rồi mới truyền đạo sau. Không giữ đạo mà truyền đạo thì nói như Đức Cao Tiếp Văn Pháp Quân, nào khác chi lấy “hai tay không vãi vào thiên hạ”, chẳng có hạt giống nào cả.
Nhưng nên hiểu thế nào là giữ đạo?
Lập Thiên Bàn ở nhà, ăn chay, mặc áo trắng đội khăn đen đến thánh thất vào các ngày sóc vọng, lễ lạt, v.v... chỉ mới là giữ đạo bề ngoài, giữ đạo hình thức.
Người tín đồ khoác áo trắng Cao Đài còn phải biết giữ đạo ở chiều sâu, ở tận cốt tủy.
Muốn giữ đạo được sâu thẳm như vậy, mỗi tín đồ chúng ta cần phải thấm thía và tu tập đúng theo thánh giáo của Đức Chí Tôn dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 08-6 Bính Thân (Chủ Nhật 15-7-1956):
Người của các con là người của Đạo. Lời nói của các con là lời nói của Thầy. Việc làm của các con là việc làm của hàng thánh đức. Các con đừng tưởng rằng không quan hệ. Các con buồn lẫy, giận hờn, câu mâu, lỗ mãng; người ta không nói là thái đ của cá nhân, mà người ta cho bao nhiêu cử chỉ hành đng của mỗi con là hin thân của Đi Đo. Các con có phá Đo không? Có làm nhc hổ cho Thầy không?
Lời Thầy dạy rõ ràng như thế, cách nay tròn sáu mươi năm. Nhưng đối với phần đông tín đồ, chúng ta nào dám nói có bao nhiêu người lãnh hội mà làm đúng lời Thầy.
Bởi vậy, trong đàn cơ ngày Thứ Sáu 01-3-1957 dẫn trên, Đức Cao Tiếp Văn Pháp Quân than thở:
Ôi! Từ lâu người tín đồ ngỡ là vào cửa Đạo để cho vui, chưa thấy cái giá trị tôn quý trong hàng thánh đức, nên vào thì vào, tu cũng tu, chớ nào thấy cái trọng trách phải làm sao cho xứng đáng và được đẹp lòng Thầy điều độ.”
Tóm lại, nói tới sự thiếu sót ý thức bổn phận của phần đông tín đồ là để khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng và rất mực cần thiết của quý huynh tỷ được Hội Thánh tin cậy, chọn lựa, và chánh thức đào tạo trước khi ban trao đặc nhiệm hoằng giáo để giúp tín đồ biết giữ đạo và truyền đạo.
*
Hôm nay, hệ Hoằng Giáo khai giảng sau khi Hội Thánh Truyền Giáo vừa long trọng tổ chức viên mãn đại lễ kỷ niệm Hội Thánh tròn trịa một hoa giáp. Phải chăng lựa chọn thời điểm này để khai giảng hệ Hoằng Giáo là có hàm ý sâu xa của Hội Thánh? Tức là quý huynh tỷ hạnh sinh vinh dự hiện diện hôm nay sau hai năm nữa sẽ có cơ hội được góp phần đạo sự vào một viễn đồ phát triển mới mẻ của Hội Thánh.
Sáu mươi năm trước, Hội Thánh Truyền Giáo được thành lập với sứ mạng trung hưng, và giáo sở trung ương của Hội Thánh tại Đà Nẵng được mang mỹ hiệu Trung Hưng Bửu Tòa.
Trung hưng 中興 là chi?
Trung hưng tức là phục hưng 復興; làm cho cái gì đang suy yếu trở lại mạnh mẽ.
Tôn giáo nào cũng cần phải trung hưng. Trung hưng tôn giáo là quy luật tự nhiên của trời đất. Tôn giáo nào không biết trung hưng ắt sẽ phải tuân theo quy luật thành trụ hoại diệt.
Năm 1956, khi Hội Thánh Truyền Giáo được thành lập do mệnh Trời thì bấy giờ nền đạo Cao Đài đã phân hóa đến mức mà mọi nỗ lực hàn gắn để thống nhất đều không đạt được kết quả mảy may.
Tuy nhiên, sự tự giải thể của Liên Hòa Tổng Hội vào năm 1940 (sau mười hai đại hội Long Vân được lần lượt tổ chức ở cả hai miền Nam và Trung) không phải là đặt dấu chấm hết cho công cuộc thống nhất đạo Cao Đài.
Chính sứ mạng trung hưng đặt để cho Hội Thánh Truyền Giáo đã xác định rằng công cuộc thống nhất đạo Cao Đài vẫn còn phải kiên trì tiếp tục.
Bên cạnh đó, danh xưng Hội Thánh gắn liền với hai chữ Truyền Giáo lại cho thấy rằng để thực thi và hoàn thành sứ mạng trung hưng, thì phải dùng biện pháp truyền giáo, và những nhân sự đảm nhận đặc nhiệm truyền giáo, hoằng giáo đương nhiên là những nhân tố rất đỗi quan trọng.
Bởi vậy, tôi nghĩ rằng những vị đã được Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài chọn lựa để hôm nay bắt đầu chánh thức được đào tạo và rồi hai năm nữa sẽ được ban trao sứ mạng hoằng giáo quả là những vị rất đỗi vinh dự mà cũng vô cùng gian nan khổ nhọc. Tại sao lại như thế?
Tôi nghĩ rằng công cuộc hoằng giáo ngày nay của Hội Thánh không đơn thuần chỉ hướng tới việc phát triển tôn giáo với số lượng thánh đường nguy nga đua nhau mọc lên khắp nơi, và cũng không phải chỉ nhắm vào mục đích nâng con số tín hữu lên cho tăng thêm vài triệu.
Công cuộc hoằng giáo ngày nay phải gắn với cơ tái to Kỳ Ba, gắn với mc đích kép của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là Thế Đạo đại đồngThiên Đạo giải thoát.
Do đó, về mặt Thiên Đạo, công cuộc hoằng giáo ngày nay không thể đứng ngoài con đường vô vi tâm pháp để đưa tín đồ đi đến chỗ tu chứng, như lời Đức Đông Phương Lão Tổ dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 17-01 Kỷ Hợi (Thứ Ba 24-02-1959):
Đạo vô vi phải tu mới chứng
Tu chứng rồi mới xứng Thiên ân
Ân oai quyền pháp độ dân
Làm cho sáng tỏ xa gần kỉnh tin.
Song song đó, về mặt Thế Đạo, công cuộc hoằng giáo ngày nay không đơn thuần chỉ là rao giảng cho tín đồ biết ăn hiền ở lành, gây tạo phước đức.
Đạo Cao Đài ra đời không phải để góp thêm tôn giáo thứ ngàn lẻ một cho thế gian vốn đã sẵn có quá nhiều cổ kim tông phái. Bởi lẽ nếu Cao Đài chỉ là tôn giáo thứ ngàn lẻ một thì Quảng Đức Chơn Tiên đâu cần phải hoan hỷ thốt lên rằng:
Mừng đặng sinh trong cơ tái tạo
Đặng làm người học Đạo Kỳ Ba
Nhân loại hoàn cầu đang sống trong cảnh phân ly, chia rẽ đến mức cực độ của rẽ chia, ly tán. Do đó công cuộc hoằng giáo hôm nay còn phải cùng lúc đảm đương hai mặt đối nội và đối ngoại.
- Về đối ngoi, công cuộc hoằng giáo cần thiết khêu tỏ lý đồng nguyên và quy nguyên để mỗi người tín hữu Cao Đài đồng thời còn là một người bảo vệ, ủng hộ nhiệt thành cho mọi nỗ lực hòa đồng vạn giáo, hòa hợp liên tôn trong nước và ngoài nước, góp phần xây dựng xã hội đại đồng.
- Về đối ni, công cuộc hoằng giáo không chỉ giúp cho tín hữu Cao Đài thấu hiểu được cốt tủy nền đạo của mình (giáo lý và thực hành) mà còn dìu dẫn tư tưởng, tâm chí tín hữu luôn luôn hướng về sự nghiệp thống nhất đo Cao Đài, xem đó là hoài bão, lý tưởng suốt cả đời mình.
Vào ngày 22-4 Mậu Tuất (Thứ Hai 09-6-1958) tại Trung Hưng Bửu Tòa, Đức Nhất Phẩm Nhị Thừa Hoan Hỷ Chơn Quân Thái Sơ Thanh có ví von bóng bảy rất thâm thúy về chỗ khác nhau giữa nền đạo Cao Đài Kỳ Ba so với các tôn giáo đã ra đời vào hai kỳ trước. Ngài dạy như sau:
Chánh pháp ở Thầy là quyền hành chỉnh pháp vạn giáo. Bông vẫn là bông, đẹp vẫn là đẹp, hương vị đều có, nhưng hương thơm bởi buổi mai, buổi chiều theo âm dương thăng lên hoặc giáng xuống.
Thế thì, người hoằng giáo Cao Đài cần giúp cho tín đồ cũng như những người thực tâm muốn tìm hiểu Đạo Thầy nhận ra được trong vườn bông thơm tho vạn giáo, thì cái bông Cao Đài thơm khác hơn ở chỗ nào. Đây là một thách thức gay go; bao lâu chúng ta chưa làm sáng tỏ một cách thuyết phục thì bá tánh vẫn còn dể duôi nói rằng đạo Cao Đài chả có gì mới, chỉ là sự chắp vá, trộn lẫn đủ thứ của các tôn giáo khác.
Khi phóng tầm nhìn về con đường hoằng giáo như vậy, chúng ta liền thấy có yêu cầu cấp thiết phải chuẩn bị một hành trang, xây dựng một chương trình huấn luyện sao cho tương thích. Một chương trình đào tạo hai năm hay tăng thêm vài lần hai năm nữa e rằng cũng khó lòng đáp ứng trong hiện trạng toàn đạo Cao Đài nói chung hay Hội Thánh Truyền Giáo nói riêng.
Thế thì không thể không đặt ra cho mỗi nhân sự hoằng giáo một hành trình liên tc t đào to để phát huy những vốn liếng được Hội Thánh trang bị.
Viễn đồ trước mắt những người hoằng giáo quả thật rất mực khó khăn. Nhưng xưa nay người đạo Cao Đài chúng ta vốn đã tin sâu và từng nhiều phen thực chứng phép nhiệm mầu của lý lẽ Thiên nhân hiệp nhất.
Tại thánh thất Trung An, ngày 04-8 Đinh Hợi (Thứ Năm 18-9-1947), Đức Thái Bạch Trường Canh nung chí chúng ta:
Thân có khó, ta thì chịu khó
Chí có lay, ta có ơn Thầy
Tung hoành Nam Bắc, Đông Tây
Bình sinh một thuở, có ngày nên công.
Một lần khác, tại thánh thất Thái Hòa, ngày 14-4 Ất Mùi (Thứ Bảy 04-6-1955), Đức Lý Thái Bạch thêm sức cho chúng ta:
Người nhiệt huyết Thầy hằng soi chiếu
Người chí thành cửu khiếu Thầy khai
Xưa nay tin một không hai
Thần thông hóa độ liên đài viên minh.
Để mở ra được cái kênh thông công giao tiếp giữa Thiên nhân ngõ hầu đón nhận sức Trời ơn Thánh hộ trì, trong quá trình đào luyện trí năng hoằng giáo nhất định phải thật dày công vun bồi tâm hnh.
Suy nghĩ đến yêu cầu tâm hạnh của con người hoằng giáo, chúng ta có thể nương theo lời Đức Quan Âm Bồ Tát dạy ngày 19-3 Mậu Tuất (Thứ Tư 07-5-1958) tại Trung Hưng Bửu Tòa để xác quyết rằng những vị đang dấn thân vào dặm dài hoằng giáo không phải nhằm mưu cầu một chức danh hay một địa vị; trái lại, quý huynh tỷ hệ Hoằng Giáo hôm nay đã giác ngộ mà lập công.
Hai chữ lập công ấy luôn luôn được soi dẫn bằng thánh ngôn của Thầy ban trao tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày 16-5 Bính Thân (Chủ Nhật 24-6-1956). Hôm ấy, Thầy chúng ta dạy rất ngắn gọn:
“Có công không hạnh không thành; có hạnh không công không lập.”
*
Tôi không phải là môn sanh Hội Thánh Truyền Giáo, nhưng kể từ khi tập tễnh bước chân vào ngưỡng cửa Cao Đài, tôi luôn luôn ngưỡng mộ Hội Thánh Truyền Giáo, luôn luôn tin tưởng rằng sứ mạng trung hưng sẽ được những can trường thiết thạch của núi sông anh linh tú khí miền Trung dốc hết tuệ tài hoàn thành viên mãn.
Trong tình cảm ấy của tôi, câu chuyện ngày khai giảng hệ Hoằng Giáo hôm nay cầu xin được vinh hạnh làm món lễ phẩm đơn sơ nhưng chơn thật, để giờ đây anh chị em chúng ta cùng hiệp tâm dâng lên Đức Chí Tôn, dâng lên Liệt Thánh Tông Đồ Hội Thánh Truyền Giáo, cầu xin các Đấng chan rưới hồng ân cho Hạnh Đường hệ Hoằng Giáo khóa Một này sẽ kết thành bông trái mỹ miều, Hội Thánh chúng ta sẽ gặt hái một vụ mùa đầu tiên thạnh mậu.
Thánh thất Trung Minh, 17-7-2016
Huệ Khải




([1]) Lúc 8 giờ sáng Chủ Nhật 17-7-2016, tại thánh thất Trung Minh (số 609-611 đường Bình Thới, quận 11, TpHCM).
([2]) Tần Chí An 秦至安 người Lăng Xuyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Tương truyền ông ba lần thi tiến sĩ nhưng đều hỏng. Năm 1213 chạy loạn về phương Nam. Năm 1288 cha mất, ông không màng việc nhà, phiêu lãng vùng núi Tung Sơn. Ông đọc nhiều kinh sách Phật và Lão, rồi làm đạo sĩ, là tác giả quyển Kim Liên Chánh Tông Ký 金蓮正宗記.
([3]) Hà Nội: Nxb Tôn Giáo. Quyển 92-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo. 




 Quý đạo hữu gần xa muốn nhận các kinh sách do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo xuất bản, được gởi biếu qua bưu điện, xin vui lòng gởi e-mail về: daidaovanuyen@gmail.com
Và xin quý đạo hữu hoan hỷ trả giúp cước phí cho bưu điện ngay khi nhận được sách biếu.
Ban Ấn Tống trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.