CÁNH NHẠN LƯNG TRỜI
Đây là chuyện tôi nghe:
Trong đạo viện theo định kỳ lại tổ chức cho môn sanh thực tập thuyết
trình giảng đạo. Hôm ấy một môn sanh chọn đề tài Tâm Không, và minh họa bằng bốn câu thơ đã đi vào văn học sử Phật
Giáo nước Nam .
Thuyết trình viên kể rằng vào đời Hậu Lê, ở tỉnh Quảng Nam xuất sinh
một bậc chân tu tài đức hiếm có là thiền sư Hương Hải (1628-1715). Ngài đã ra
Cù Lao Chàm tu chứng, hiển lộng thần thông chinh phục yêu quái tà ma, và sự
tích lừng lẫy ấy được Lê Quý Đôn (1726-1784) chép lại trong bộ sách Kiến Văn Tiểu Lục.
Năm tám mươi tuổi (1707) thiền sư triều kiến vua Lê Dụ Tông (trị vì
1706-1729), bấy giờ nhằm niên hiệu Vĩnh Thịnh (1706-1719). Vua Lê hỏi: “Ý Phật
và ý Tổ như thế nào?” Sư ứng khẩu đáp liền:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
(Nhạn qua trời rộng
Nước lạnh bóng chìm
Nhạn nào có ý lưu dấu
Nước đâu rắp dạ
ghi hình.)
Buổi thực tập sẽ kết thúc êm thắm giá như trong phần góp ý cho thuyết
trình viên không xảy ra sự cố.
Một anh (có lẽ là mọt sách thứ thiệt) muốn chứng tỏ kiến thức quảng bác
của mình trước đồng môn, nên đứng lên đề quyết rằng thiền sư đã “luộc” bài thơ
của một thiền sư đời Tống là Thích Phổ Tế. Bài thơ gốc có chép trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, quyển 14, nguyên
văn như sau:
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tung chi ý
Trưởng tràng lúng túng, bèn quay sang hỏi sư
đệ trông coi Tàng Kinh Các xem hư thực thế nào. Sư đệ lẹ làng truy cập Google tra cứu một chốc rồi xác nhận rằng
quả có sư Thích Phổ Tế, có quyển sách ấy với bài thơ ấy.
Nhà Tống bên Trung Quốc kết thúc năm
1279. Thiền sư Hương Hải ra đời ở Việt Nam muộn hơn ba trăm năm. Xét ra bài thơ
của sư Hương Hải chỉ khác có chữ tung /
tích ở câu ba, chữ trầm / lưu ở
câu bốn, nhưng nghe hay hơn bài của sư Phổ Tế.
Trưởng tràng đăm chiêu nghĩ ngợi. Vấn
đề là… thể diện quốc gia. Mà bạo mồm nói sư Việt “luộc” thơ sư Tống thì khó chịu
quá.
Chuyện lùm xùm đến tai đạo sư. Ngài
ghé vào lớp học phân giải:
- Con nhạn là hình ảnh quen thuộc trong văn học Trung Hoa, Việt Nam . Tiếng Anh
gọi nó là wild goose, tức là con
ngỗng trời, một loài chim thiên di. Hình tượng cánh nhạn in bóng trên dòng sông
lạnh quả thật rất lãng mạn. Chả trách thuở trước ở Sài Gòn có một ông chuyên
dịch truyện chưởng của Kim Dung và ký bút danh Hàn Giang Nhạn, nghĩa là con nhạn trên sông lạnh. Có lẽ ông ấy thích
bài thơ của sư Hương Hải lắm. Ông ấy mất lâu rồi, thọ tám mươi tuổi.([3]) Hồi trẻ, thầy cũng ghiền truyện chưởng
do ông dịch rất tài hoa.
Cả lớp cười ồ. Đạo sư cũng cười, rồi nói tiếp:
- Các con nên biết rằng sư Hương Hải rất giỏi chữ Nho. Mười tám tuổi Ngài
thi đậu Hương Tiến (nghe nói tương đương Cử Nhân), được bổ làm quan trong phủ
chúa Nguyễn Phúc Lan, rồi làm tri phủ Triệu Phong năm hai mươi lăm tuổi, sau đó
mới xuất gia tu Phật.
Chắc chắn Ngài đã học nhiều kinh điển Phật Giáo Hán tạng truyền qua nước Nam . Thầy đoán
là Ngài có đọc thơ của Thích Phổ Tế. Mấy câu ngắn gọn, ý tứ thâm trầm, thanh
thoát, ai mà không thích. Có lẽ nhiều lúc thư nhàn, bên chén trà thơm, sư Hương
Hải từng ngâm nga rồi khắc ghi trong tâm trí. Thường thì những gì đã vào ký ức,
lâu ngày mình cũng không nhớ chính xác là đã đọc ở đâu, của ai. Hôm ấy, lúc vua
Lê hỏi đạo, thiền sư ngẫu hứng bật ra. Bài thơ khớp vào câu hỏi, ngụ ý bảo cho
vua Dụ Tông biết rằng Phật và Tổ tâm ý đều rỗng rang, không chấp trước.
Rất có thể sư Hương Hải không hề trả lời vua Lê như thế. Nhưng về sau môn
đệ khi chép lại Ngữ Lục của thiền sư
đã nương theo lời truyền khẩu mà thêm thắt bốn câu đó. Lâu đời tam sao thất
bổn, giữa bản gốc của sư Thích Phổ Tế và bản đem gán cho sư Hương Hải có chênh
nhau hai chữ vẫn là chuyện thường xưa nay. Lỗi lầm ắt ở đời sau chép sách thiếu
cẩn thận. Hương Hải là đại sư đắc đạo, thần thông linh diệu, thì sá gì mấy câu
thơ lẻ tẻ mà phải luộc với xào. Chúng ta phát ngôn không cẩn thận e phải chịu
khẩu nghiệp làm tổn hại đức hạnh người tu.
01-5-2013
HUỆ
KHẢI
CGvDT số 1905, ngày 03-5-2013