Thứ Ba, 3 tháng 12, 2024

KÍNH LẠY ĐỨC DA TÔ GIÁO CHỦ

 


KÍNH LẠY ĐỨC DA TÔ GIÁO CHỦ

1. Lạy cầu Con Một Chúa Cha

Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng

Cũng vì nơi tội tổ tông

Ngôi Hai phải dụng máu hồng rửa tan

5. Chúng tôi chơn giáo mơ màng

Nên chi ngày trước đạo vàng lảng lơ

Xa xôi khác cõi cách bờ

Việt Nam một cõi thiên thơ chưa tường

9. Cúi xin chỉ mối dẫn đường

Nước Cha chầu chực xót thương trao lời

Chúa Cha chính ngự ngôi Trời

Chúa Con ngai hữu đời đời hiển vang

13. Bởi nơi Chúa thác rõ ràng

Mà nên sống lại được ban ân lành

Chúng con muôn tội cam đành

Vì chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha

17. Cả kêu một tiếng lạy Cha

Chúng con biết tội xin tha con mà

Lạy cầu Con Một Chúa Cha

Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng.

(Cúi đầu không lạy)


XUẤT XỨ

Bài này là một trong chín bài kinh do Đức Thể Liên Tiên Nữ 體蓮仙女 ban cho tại Cao Thiên Đàn 高天壇 (Thánh thất Kiên Giang), ngày 24-2 Tân Vì (Thứ Bảy 11-4-1931), có ở trang 25 cuốn Kinh Nhựt Thời (34 trang ruột), in lần thứ nhứt, tại nhà in Xưa Nay (của Nguyễn Háo Vĩnh), số 60-64 Boulevard Bonard, Sài Gòn, 1932.([1]) Theo trang 16, đàn ban kinh này do Đức Quan Thánh Đế Quân vâng lịnh Đức Chí Tôn chứng minh (chứng đàn).

GIẢI NGHĨA

Da Tô: Bản kinh 1932 in là “Gia Tô”. Chúa được đặt tên là Jesus (tiếng Anh) hay Jésus (tiếng Pháp); tiếng Việt dịch âm là Giê-su. Chữ Nho dịch là 耶穌 (Da Tô, Gia Tô). Chữ (Da, Gia) nghĩa là “Cha”. Chữ () nghĩa là “hồi sinh; chết rồi mà sống lại”. Đạo Chúa còn gọi là 耶穌教 Da Tô Giáo, Gia Tô Giáo.

Câu 1-2: Lạy cầu Con Một Chúa Cha / Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng.

con một: Con duy nhứt của ai. Con Một: Chúa Giê-su.

Chúa Cha: Đức Chúa Trời; Thiên Chúa; Thượng Đế. Là Ngôi thứ nhứt trong Ba Ngôi Thiên Chúa (Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần). Chúa Cha được gọi tắt là “Cha”.

cùng: Chữ “cùng” đặt ở cuối câu thơ để diễn tả ý mong muốn thiết tha, khao khát được người nghe cảm thông và đáp ứng. Thí dụ: Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng. (Ca dao)

Câu 3-4: Cũng vì nơi tội tổ tông / Ngôi Hai phải dụng máu hồng rửa tan.

cũng vì nơi: Cũng bởi tại.

tội tổ tông (nguyên tội 原罪): Đây là tội đầu tiên của con người khi hai ông bà A-đam và E-và trái lịnh Thiên Chúa, nghe theo lời cám dỗ của con rắn (là ma quỷ) đã ăn trái cấm trong vườn địa đàng (Ê-đen). Ngoại trừ Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a, mọi người đều bị truyền lại tội ấy.([2])

Ngôi Hai: Ngôi thứ hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa (gồm Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần). Ngôi Hai còn gọi là Ngôi Con, Ngôi Lời. Chúa Giê-su là Chúa Con, Ngôi Hai, Ngôi Lời.

dụng : Dùng.

Ngôi Hai phải dụng máu hồng rửa tan: Chúa Giê-su phải dùng máu đỏ (khi bị đóng đinh trên thập giá) để rửa sạch tội lỗi chúng sanh. Kinh Thánh Tân Ước chép:

“(M)áu Đức Giê-su, (...), rửa sạch hết mọi tội lỗi của chúng ta.” (Thư 1 của Thánh Gio-an, chương 1, câu 7)

“Đức Giê-su đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta.” (Khải Huyền, chương 1, câu 5)

Câu 5-6:. Chúng tôi chơn giáo mơ màng / Nên chi ngày trước đạo vàng lảng lơ.

chơn giáo mơ màng: Đảo ngữ của “mơ màng chơn giáo”, tức là mơ hồ, không hiểu biết rõ ràng đạo Chúa.

Ghi chú: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) và Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2022, tr. 51) in là “ngoại giáo khổn nàn”: 1/ ngoại giáo: Ở bên ngoài đạo Chúa; không theo đạo Chúa. 2/ khổn nàn: Khốn nạn; vô cùng khổ sở, hèn mạt. 3/ ngoại giáo khổn nàn: Ý nói rằng vì không tin theo đạo Chúa nên phải sống vô cùng khổ sở, hèn mạt.

nên chi: Thế nên; vì vậy.

ngày trước: Ngày xưa; thuở trước; trước kia.

đạo vàng: Đạo (tôn giáo) quý báu, cao cả; đạo Chúa.

lảng lơ: Lơ lảng; lơ là, không chú ý tới, chẳng quan tâm.

Nên chi ngày trước đạo vàng lảng lơ. Ghi chú: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) và Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (2022, tr. 51) in là “Lòng theo ma quỷ tin càn tưởng vơ”. tin càn tưởng vơ: Tin tưởng xằng bậy.

Câu 7-8: Xa xôi khác cõi cách bờ / Việt Nam một cõi Thiên thơ chưa tường.

xa xôi: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (2022, tr. 51) in là “xa xuôi”. (Xa xôi, xa xuôi đồng nghĩa là xa cách, không gần nhau.)

khác cõi cách bờ: Ý nói thành Na-da-rét (Nazareth) là quê hương thời niên thiếu của Chúa Giê-su và nước Việt Nam vừa khác biệt lãnh thổ vừa cách xa nhau.

Việt Nam: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (2022, tr. 51) in là “Đông Dương”. Những năm 1887-1954, Việt Nam bị thực dân Pháp chiếm làm thuộc địa, nằm trong Liên Bang Đông Dương (gọi tắt là Đông Dương thuộc Pháp, hay Đông Pháp 東法; tiếng Pháp: Indochine française). Đông Dương 東洋 (tiếng Pháp: Indochine) gồm ba nước Việt, Cam Bốt (tiếng Pháp: Cambodge), và Lào.

Thiên thơ 天書: Sách Trời, tức Kinh Thánh Tân Ước.

tường : Hiểu biết rõ ràng.

Câu 9-10: Cúi xin chỉ mối dẫn đường / Nước Cha chầu chực xót thương trao lời.

chỉ mối: Chỉ dẫn cho biết rõ đầu mối (chỗ then chốt, trọng yếu).

dẫn đường: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (2022, tr. 51) in là “đem đường”. đem đường: (Tiếng Việt cổ) chỉ dẫn đường đi. Thí dụ: đem đường chỉ nẻo.

nước Cha: Nước Trời; Thiên quốc 天國.

chầu chực: Vất vả chờ chực để nhận được điều gì.

trao lời: Ban trao lời dạy thiêng liêng.

Nước Cha chầu chực xót thương trao lời: Câu này đảo ngữ để các thanh bằng, trắc đúng theo luật thơ lục bát. Nói xuôi là: Chầu chực nước Cha xót thương trao lời.

Câu 11-12: Chúa Cha chính ngự ngôi Trời / Chúa Con ngai hữu đời đời hiển vang.

chính ngự: Ngự trên ngai đặt ở chính giữa.

ngai hữu: Ngai đặt ở bên phải (hữu ) ngai chính. Theo Phúc Âm (Mát-thêu, chương 22, câu 44), Chúa Giê-su (Chúa Con) lên trời và ngự bên phải Chúa Cha.

Ghi chú: Trong giao tiếp xã hội, vị trí bên phải là chỗ vinh dự. Thí dụ: Khi đãi tiệc, ngồi bên phải chủ nhà (chủ tiệc) là khách mời quan trọng nhứt; ngồi bên trái chủ nhà (chủ tiệc) là khách mời quan trọng thứ nhì.

hiển vang: Hiển vinh 顯榮; vẻ vang, rạng rỡ. (Đọc trại “vinh” thành “vang” để ăn vần với “ràng” ở cuối câu dưới.)

Câu 13-14: Bởi nơi Chúa thác rõ ràng / Mà nên sống lại được ban ân lành.

thác: Chết. Thí dụ: Con tằm đến thác cũng còn vương tơ. (Truyện Kiều)

Chúa thác: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (2022, tr. 51) in là “Người thác”. Theo Phúc Âm (Mát-thêu, chương 17, câu 22-23), Chúa bị đóng đinh trên thập giá và trút linh hồn (chết), xác được để trong hầm mộ; ba ngày sau Chúa sống lại (phục sinh 復生) và bước ra khỏi hầm mộ.

Mà nên sống lại được ban ân lành: Câu này đảo ngữ; nói xuôi là: Mà được (Chúa Cha) ban ơn lành nên sống lại.

Câu 15-16: Chúng con muôn tội cam đành / Vì chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha.

chúng con: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (2022, tr. 51) in là “chúng tôi”.

muôn tội: Vô số tội lỗi.

cam đành: Khứng chịu; bằng lòng chấp nhận. Ghi chú: Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên (2022, tr. 51) in là “đã đành”.

vì chưng: Vì bởi; bởi chưng; bởi vì.

tối mắt: (Nghĩa bóng) mất sáng suốt, không nhìn ra được chỗ đúng chỗ sai, không thấy được lẽ chánh lẽ tà.

Câu 17-18: Cả kêu một tiếng lạy Cha / Chúng con biết tội xin tha con mà.

cả kêu: Lớn tiếng kêu lên; gọi to lên.

: Chữ đặt cuối câu, tỏ ý tha thiết khẩn cầu.

Câu 19-20: Lạy cầu con một Chúa Cha / Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng.

Phúc Âm (Gio-an, chương 3, câu 16), nhiều lần chép rằng Chúa Giê-su là “Con Một” của “Chúa Cha” (Đức Chúa Trời; Thiên Chúa; Thượng Đế). Chẳng hạn: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Mt, để ai tin vào con của Thiên Chúa thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”

“Chúa Cha” là Thượng Đế, và Ngài rất yêu thương chúng ta. Thư 1 của Thánh Gio-an (chương 3, câu 1) viết: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa.”

“Da Tô cứu thế” tức là Chúa Giê-su cứu độ thế gian. Phúc Âm (Gio-an, chương 12, câu 47) chép lời Chúa Giê-su xác nhận sứ mạng cứu thế của Chúa như sau: “Ta đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.”

TỔNG LUẬN

1. Bài kinh này xưng tụng Chúa Giê-su cùng với các bài kinh xưng tụng Tam Giáo và Tam Trấn (đại diện Tam Giáo). Ngoài ra, trên Thiên Bàn, cùng với ảnh tượng (hay linh vị) Tam Giáo và Tam Trấn còn có ảnh tượng (hay linh vị) Chúa Giê-su. Đây là minh chứng cho thấy trong đạo Cao Đài có đủ Tứ Giáo (tức là Tam Giáo cộng thêm đạo Chúa).

Khi mới mở đạo Cao Đài, Ơn Trên chỉ nói tới Tam Giáo đồng nguyên, Tam Giáo quy nguyên. Nhưng qua thời gian, khi trình độ đàn con áo trắng dần dần được mở mang thêm rộng sâu nhiều hơn thì Đức Chí Tôn cùng các Đấng thiêng liêng lại phát triển khái niệm Tam Giáo (Nho, Lão, Thích) cổ truyền thành Tứ Giáo. Không dừng lại ở đó, Ơn Trên còn dạy cho chúng sanh biết rằng Tứ Giáo vốn dĩ đồng nguyên 同源 nên sẽ quy nguyên 歸源 theo định luật Nhứt tán vạn, rồi vạn lại quy Nhứt.([3])

Về Tứ Giáo đồng nguyên, Đức Ngô Minh Chiêu dạy:

Kìa Tứ Giáo (Phật, Tiên, Gia, Khổng)

Khai sanh môn truyền thống khắp nơi

Đều do nguyên lý của Trời

Giáng sanh cõi thế cứu đời độ dân.([4])

Về Tứ Giáo quy nguyên, Đức Gia Tô Giáo Chủ dạy:

Thích, Nho, GIA, Lão một đường về

Chánh tín bồi thoát muội mê

Độ thế GIÁO dân tùy mỗi xứ

Một Trời CHỦ tể khắp tư bề.([5])

2. Kinh Thánh Tân Ước chép rằng Chúa Giê-su sẽ trở lại thế gian một cách âm thầm như kẻ trộm trong đêm; do đó, mọi người hãy tỉnh thức (canh thức) để biết Chúa trở lại mà tiếp đón. Chẳng hạn như các câu này:

2.1. Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ng, thì Con Người [Giê-su] sẽ đến. (Mát-thêu, chương 24, câu 44)

2.2. Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trm ban đêm. (1 Thê-xa-lô-ni-ca, chương 5, câu 2)

2.3. Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trm. (2 Phê-rô, chương 3, câu 10)

2.4. Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời khắc ấy đến. (Mác-cô, chương 13, câu 33)

3. Ngày nay, qua Thánh giáo Cao Đài, chúng ta rất diễm phúc biết rằng Đức Chúa Con (Ngôi Hai) đã trở lại Việt Nam trong Tam Kỳ Phổ Độ, không phải chỉ qua cơ bút mà còn trở lại bằng xương bằng thịt.

Thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Chúa giáng sinh, lớn lên trong gia đình một người thợ mộc thanh bạch ở thành Na-da-rét đang dưới ách thống trị của đế quốc La Mã xâm lược.

Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài Ngô Văn Chiêu chào đời trong túp lều của một cặp vợ chồng công nhân nghèo nàn ở đất Sài Gòn đang dưới ách thống trị của thực dân Pháp xâm lược.

Đức Ngô tu hành đắc đạo tại thế. Sau khi thoát xác một trăm ngày, Đức Ngô đắc vị Ngôi Hai Giáo Chủ trong một Thánh lễ thiết lập tại Thảo Lư ở Cần Thơ, vào giờ Dậu, ngày 23-6 Giáp Tuất (Thứ Sáu 03-8-1934), có Đức Chí Tôn, Đức Lý Thái Bạch, chư Thánh, chư Tiên, chư Phật giáng cơ chúc mừng.([6])

Xin đọc thêm Ngôi Lời Xuống Thế ([7]) để hiểu biết về huyền nhiệm tái lâm 再臨 (trở lại) của Đức Chúa Con qua các Thánh giáo do Đức Ngôi Hai Giáo Chủ Ngô Đại Tiên giáng cơ truyền dạy.

Nhiêu Lộc, 03-12-2024

Huệ Khải


([1]) Sau đây gọi tắt là Kinh Nhựt Thời (1932, bản in đầu) để phân biệt với bản in lần thứ hai, cùng năm 1932 (36 trang ruột).

([2]) Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Từ Điển Công Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2016, tr. 912.

([3]) “Vạn” là vạn giáo. “Nguyên” hay “Nhứt” là Đạo, hay Đại Đạo 大道, một khái niệm do Đức Lão Tử khai sáng vào thế kỷ 6 trước Công Nguyên, được chép trong bộ Đạo Đức Kinh 道德經 (hai quyển, tám mươi mốt chương).

([4]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận Tư, Sài Gòn), ngày 01-3 Bính Ngọ (Thứ Ba 22-3-1966),

([5]) Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận Tư, Sài Gòn), đêm Thứ Sáu 24-12-1965.

([6]) Tòa Thánh Ngọc Kinh, Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2022, tr. 487-494.

([7]) Phạm Văn Liêm kết tập, Huệ Khải và Lê Anh Minh hiệp chú. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2024. Quyển 160-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.