Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

GIẢI NGHĨA KINH NHỰT THỜI / 8. DA TÔ GIÁO CHỦ

 


8. KÍNH LẠY ĐỨC DA TÔ GIÁO CHỦ

1. Lạy cầu Con Một Chúa Cha

Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng

Cũng vì nơi tội tổ tông

Ngôi Hai phải dụng máu hồng rửa tan

5. Chúng tôi chơn giáo mơ màng

Nên chi ngày trước Đạo vàng lảng lơ

Xa xôi khác cõi cách bờ

Việt Nam một cõi Thiên thơ chưa tường

9. Cúi xin chỉ mối dẫn đường

Nước Cha chầu chực xót thương trao lời

Chúa Cha chính ngự ngôi Trời

Chúa Con ngai hữu đời đời hiển vang

13. Bởi nơi Chúa thác rõ ràng

Mà nên sống lại được ban ơn lành

Chúng con muôn tội cam đành

Vì chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha

17. Cả kêu một tiếng lạy Cha

Chúng con biết tội xin tha con mà

Lạy cầu Con Một Chúa Cha

Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng.

(Cúi đầu không lạy)

XUẤT XỨ

Bài này là một trong chín bài kinh do Đức Thể Liên Tiên Nữ 體蓮仙女 ban cho tại Cao Thiên Đàn 高天壇 (Thánh thất Kiên Giang), ngày 24-2 Tân Vì (Thứ Bảy 11-4-1931), có ở trang 25 cuốn KNT 1932a. Theo trang 16, đàn ban kinh này do Đức Quan Thánh Đế Quân vâng lịnh Đức Chí Tôn chứng đàn. Ngài xưng danh qua bài ngũ ngôn tứ tuyệt quán thủ là “Quan Vân Trường chứng” và dạy: Ta vưng lịnh Đức Chí Tôn chứng đàn cho Thể Liên Tiên Nữ giáng bút dạy Kinh Nhựt Thời làm lễ Đức Chí Tôn, Đức Thánh Mẫu ([1]) và chư Đại Nhơn Tam Giáo. ([2])

GIẢI NGHĨA

Nhan đề:

Da Tô: KNT 1932a in là “Gia Tô”. KNT 2016 NĐCT 2022 đều in là “Da”. Cả hai (Da; Gia) đều được chấp nhận. Chúa được đặt tên là Jesus (tiếng Anh) hay Jésus (tiếng Pháp); tiếng Việt dịch âm là Giê-su. Chữ Nho dịch là 耶穌 (Da Tô; Gia Tô). Chữ (Da; Gia) nghĩa là “Cha”. Chữ () nghĩa là “hồi sinh; chết rồi mà sống lại”. Đạo Chúa còn gọi là 耶穌教 Da Tô Giáo hay Gia Tô Giáo.

Câu 1-2: Lạy cầu Con Một Chúa Cha / Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng.

con một: Con duy nhứt của ai.

Con Một: (Viết hoa) Chúa Giê-su. Thí dụ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Mt, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Phúc Âm, Gio-an, chương 3, câu 16)

Chúa Cha: Đức Chúa Trời; Thiên Chúa; Thượng Đế. Đây là Ngôi thứ nhứt trong Ba Ngôi Thiên Chúa (Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần). Chúa Cha được gọi tắt là “Cha”.

“Chúa Cha” là Thượng Đế, và Ngài rất yêu thương chúng ta. Thư 1 của Thánh Gio-an (chương 3, câu 1) viết: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa.”

Da Tô cứu thế: tức là Chúa Giê-su cứu độ thế gian. Phúc Âm (Gio-an, chương 12, câu 47) chép lời Chúa Giê-su xác nhận sứ mạng cứu thế của Chúa như sau: “Ta đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.”

cùng: Chữ “cùng” đặt ở cuối câu thơ để diễn tả ý mong muốn thiết tha, khao khát được người nghe cảm thông và đáp ứng. Thí dụ: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng.” (Ca dao)

Câu 3-4: Cũng vì nơi tội tổ tông / Ngôi Hai phải dụng máu hồng rửa tan.

cũng vì nơi: Cũng bởi tại.

tội tổ tông (nguyên tội 原罪): Đây là tội đầu tiên của loài người khi hai ông bà A-đam và E-và trái lịnh Thiên Chúa, nghe theo lời cám dỗ của con rắn (là ma quỷ) đã ăn trái cấm trong vườn địa đàng (Ê-đen). Ngoại trừ Chúa Giê-su và Đức Mẹ Ma-ri-a, mọi người đều bị truyền lại tội ấy.([3])

Ngôi Hai: Ngôi thứ hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa (gồm Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh Thần). Ngôi Hai còn gọi là Ngôi Con, Ngôi Lời. Chúa Giê-su là Chúa Con, Ngôi Hai, Ngôi Lời.

dụng : Dùng.

Ngôi Hai phải dụng máu hồng rửa tan: Chúa Giê-su phải dùng máu đỏ (khi bị đóng đinh trên thập giá) để rửa sạch tội lỗi chúng sanh. Kinh Thánh Tân Ước chép:

“(M)áu Đức Giê-su, (...), rửa sạch hết mọi tội lỗi của chúng ta.” (Thư 1 của Thánh Gio-an, chương 1, câu 7)

“Đức Giê-su đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta.” (Khải Huyền, chương 1, câu 5)

Câu 5-6: Chúng tôi chơn giáo mơ màng / Nên chi ngày trước Đạo vàng lảng lơ.

chơn giáo mơ màng: Đảo ngữ của “mơ màng chơn giáo”, tức là mơ hồ, không hiểu biết rõ ràng Đạo Chúa.

nên chi: Thế nên; vì vậy.

ngày trước: Ngày xưa; thuở trước; trước kia.

Đạo vàng: Đạo (tôn giáo) quý báu, cao cả; Đạo Chúa.

lảng lơ: Lơ lảng; lơ là, không chú ý tới, chẳng quan tâm.

Ghi chú: KNT 1932a in là “Chúng tôi ngoại giáo khổn nàn / Lòng theo ma quỷ tin càn tưởng vơ.” NĐCT 2022 cũng in như vậy, nhưng thay vì “khổn” (dấu hỏi) thì in là vì “khốn” (dấu sắc). Tuy nhiên, KNT 2016 sửa lại hai câu này thành “Chúng tôi chơn giáo mơ màng / Nên chi ngày trước Đạo vàng lảng lơ” quả là rất khéo.

Câu 7-8: Xa xôi khác cõi cách bờ / Việt Nam một cõi Thiên thơ chưa tường.

xa xôi: KNT 1932aNĐCT 2022 đều in là “xa xuôi”. (Xa xôi, xa xuôi đồng nghĩa là xa cách, không gần nhau.)

khác cõi cách bờ: Ý nói thành Na-da-rét (Nazareth) là quê hương thời niên thiếu của Chúa Giê-su và nước Việt Nam vừa khác biệt lãnh thổ vừa cách xa nhau.

Việt Nam: KNT 1932aNĐCT 2022 đều in là “Đông Dương”. Những năm 1887-1954, Việt Nam bị thực dân Pháp chiếm làm thuộc địa, ở trong Liên Bang Đông Dương (gọi tắt là Đông Dương thuộc Pháp, hay Đông Pháp 東法; tiếng Pháp: Indochine française). Đông Dương 東洋 (tiếng Pháp: Indochine) gồm ba nước Việt, Cam Bốt (tiếng Pháp: Cambodge), và Lào. Do đó, KNT 2016 sửa lại thành “Việt Nam quả là rất khéo.

Thiên thơ 天書: Sách Trời, tức Kinh Thánh Tân Ước, trong đó bốn sách Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca,Gio-an được gọi chung là Phúc Âm (Tin Mừng hay Tin Lành).

tường : Hiểu biết rõ ràng.

Câu 9-10: Cúi xin chỉ mối dẫn đường / Nước Cha chầu chực xót thương trao lời.

chỉ mối: Chỉ dẫn cho biết rõ đầu mối (chỗ then chốt, trọng yếu).

dẫn đường: KNT 1932aNĐCT 2022 đều in là “đem đường”. đem đường: (Tiếng Việt cổ) chỉ dẫn đường đi. Thí dụ: đem đường chỉ nẻo.

nước Cha: Nước Trời; Thiên quốc 天國.

chầu chực: Vất vả chờ chực để nhận được điều gì.

trao lời: Ban trao lời dạy thiêng liêng.

Nước Cha chầu chực xót thương trao lời: Câu này đảo ngữ để các thanh bằng, trắc đúng theo luật thơ lục bát. Nói xuôi là: Chầu chực nước Cha (xin Chúa) xót thương trao lời.

Câu 11-12: Chúa Cha chính ngự ngôi Trời / Chúa Con ngai hữu đời đời hiển vang.

chính ngự: Ngự trên ngai đặt ở chính giữa.

ngai hữu: Ngai đặt ở bên phải (hữu ) ngai chính. Theo Phúc Âm (Mát-thêu, chương 22, câu 44), Chúa Giê-su (Chúa Con) lên trời và ngự bên phải Chúa Cha.

Ghi chú: Trong giao tiếp xã hội, vị trí bên phải là chỗ vinh d. Thí dụ: Khi đãi tiệc, ngồi bên phải chủ nhà (chủ tiệc) là khách mời quan trọng nhứt; ngồi bên trái chủ nhà (chủ tiệc) là khách mời quan trọng thứ nhì.

hiển vang: Hiển vinh 顯榮; vẻ vang, rạng rỡ. (Đọc trại “vinh” thành “vang” để ăn vần với “ràng” ở cuối câu 13.)

Câu 13-14: Bởi nơi Chúa thác rõ ràng / Mà nên sống lại được ban ân lành.

thác: Chết. Thí dụ: Con tằm đến thác cũng còn vương tơ. (Nguyễn Du)

Chúa thác: KNT 1932a NĐCT 2022 đều in là “Người thác”. Theo Phúc Âm (Mát-thêu, chương 17, câu 22-23), Chúa bị đóng đinh trên thập giá và trút linh hồn (chết), xác được để trong hầm mộ; ba ngày sau Chúa sống lại (phục sinh 復生) và bước ra khỏi hầm mộ.

Mà nên sống lại được ban ân lành: Câu này đảo ngữ; nói xuôi là: Mà được (Chúa Cha) ban ơn lành nên sống lại.

Câu 15-16: Chúng con muôn tội cam đành / Vì chưng tối mắt chưa nhìn biết Cha.

chúng con: KNT 1932a NĐCT 2022 đều in là “chúng tôi”, nhưng xuống tới câu 18 thì cả hai bản này đều in là “chúng con”, như vậy không có tính nhứt quán.

muôn tội: Vô số tội lỗi.

cam đành: Khứng chịu; bằng lòng chấp nhận. Ghi chú: KNT 1932a NĐCT 2022 đều in là đã đành”.

vì chưng: Vì bởi; bởi chưng; bởi vì.

tối mắt: (Nghĩa bóng) mất sáng suốt, không nhìn ra được chỗ đúng chỗ sai, không thấy được lẽ chánh lẽ tà.

Câu 17-18: Cả kêu một tiếng lạy Cha / Chúng con biết tội xin tha con mà.

cả kêu: Lớn tiếng kêu lên; gọi to lên.

: Chữ đặt cuối câu, tỏ ý tha thiết khẩn cầu.

Câu 19-20: Lạy cầu con một Chúa Cha / Da Tô cứu thế xót xa tôi cùng.

Trong bài thơ “lục bát thủ vĩ”, hai câu kết này lặp lại hai câu mở đầu (đã giải thích ở trên).

TỔNG LUẬN

1. Bài kinh này xưng tụng Chúa Giê-su cùng với ba bài kinh xưng tụng Tam Giáo Tổ Sư (Phật Tổ, Lão Quân, và Khổng Thánh); đây là minh chứng cho thấy trong đạo Cao Đài có đủ Tứ Giáo (tức là Tam Giáo cộng thêm đạo Chúa).

Khi mới mở đạo Cao Đài, Ơn Trên chỉ nói tới Tam Giáo đồng nguyên, Tam Giáo quy nguyên. Nhưng qua thời gian, khi trình độ đàn con áo trắng dần dần được mở mang thêm rộng sâu nhiều hơn thì Đức Chí Tôn cùng các Đấng thiêng liêng lại phát triển khái niệm Tam Giáo (Nho, Lão, Phật) cổ truyền thành Tứ Giáo. Không dừng lại ở đó, Ơn Trên còn dạy cho chúng sanh biết rằng Tứ Giáo vốn dĩ đồng nguyên 同源 nên sẽ quy nguyên 歸源 theo định luật Nhứt tán vạn, rồi vạn lại quy Nhứt.([4])

Về Tứ Giáo đồng nguyên, Đức Ngô Minh Chiêu dạy:

Kìa Tứ Giáo (Phật, Tiên, Gia, Khổng)

Khai sanh môn truyền thống khắp nơi

Đều do nguyên lý của Trời

Giáng sanh cõi thế cứu đời độ dân.([5])

Về Tứ Giáo quy nguyên, Đức Gia Tô Giáo Chủ dạy:

Thích, Nho, GIA, Lão một đường về

Chánh tín bồi thoát muội mê

Độ thế GIÁO dân tùy mỗi xứ

Một Trời CHỦ tể khắp tư bề.([6])

2. Kinh Thánh Tân Ước chép rằng Chúa Giê-su sẽ trở lại thế gian một cách âm thầm như kẻ trộm trong đêm; do đó, mọi người hãy tỉnh thức (canh thức) để biết Chúa trở lại mà tiếp đón. Chẳng hạn các câu này:

Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ng, thì Con Người [Giê-su] sẽ đến. (Mát-thêu, chương 24, câu 44)

Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trm ban đêm. (1 Thê-xa-lô-ni-ca, chương 5, câu 2)

Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trm. (2 Phê-rô, chương 3, câu 10)

Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời khắc ấy đến. (Mác-cô, chương 13, câu 33)

3. Ngày nay, qua Thánh giáo Cao Đài, chúng ta rất diễm phúc biết rằng Đức Chúa Con (Ngôi Hai) đã trở lại Việt Nam trong Tam Kỳ Phổ Độ, không phải chỉ qua cơ bút mà còn trở lại bằng xương bằng thịt.

Thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Giê-su giáng sinh trong máng cỏ ở chuồng gia súc giữa đêm đông tuyết giá, rồi Chúa lớn lên trong gia đình một người thợ mộc thanh bạch ở thành Na-da-rét đang dưới ách thống trị của đế quốc La Mã xâm lược.

Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Ngài Ngô Văn Chiêu chào đời trong túp lều lụp xụp giữa vùng sình lầy ở Chợ Lớn của một cặp vợ chồng công nhân nghèo nàn, trong khi đất nước Việt Nam đang dưới ách thống trị của thực dân Pháp xâm lược.

Đức Ngô tu hành đắc đạo tại thế. Sau khi thoát xác một trăm ngày, Đức Ngô đắc vị Ngôi Hai Giáo Chủ trong một Thánh lễ thiết lập tại Thảo Lư ở Cần Thơ, vào giờ Dậu, ngày 23-6 Giáp Tuất (Thứ Sáu 03-8-1934), có Đức Chí Tôn, Đức Lý Thái Bạch, chư Thánh, chư Tiên, chư Phật giáng cơ chúc mừng.([7])

Ngôi Hai theo đạo Chúa cũng là Ngôi Lời, và Đức Đại Tiên Ngô Minh Chiêu từng giáng cơ, xưng danh qua bài thơ tứ tuyệt, xác nhận Ngài là Ngôi Lời như sau:

NGÔ thị Ngôi Lời xuống thế gian

ĐẠI đồng lập pháp dựng Nam bang

TIÊN phàm ai biết làm sao biện

Giáng giáng thăng thăng Phước Huệ Đàn.([8])

Một lần khác, Đức Ngô xác nhận Ngài chính là Chúa Ki-tô (Christ) trở lại trong Kỳ Ba:

CHRIST ([9]) đến Lần Ba

NGÔ Đạo ([10]) mở sơn hà

ĐẠI đồng quy vạn giáo

TIÊN Phật cũng là Ta.([11])

Có thể đọc thêm Ngôi Lời Xuống Thế ([12]) để hiểu biết về huyền nhiệm tái lâm 再臨 (trở lại) của Đức Chúa Con qua các Thánh giáo do Đức Ngôi Hai Giáo Chủ Ngô Minh Chiêu Đại Tiên giáng cơ truyền dạy.

Huệ Khải



([1]) Tức là Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

([2]) Tức là Tam Giáo Tổ Sư (Thích Ca, Lão Tử, và Khổng Tử).

([3]) Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Từ Điển Công Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2016, tr. 912.

([4]) “Vạn” là vạn giáo. “Nguyên” hay “Nhứt” là Đạo, tức Đại Đạo 大 道, một khái niệm do Đức Lão Tử khai sáng vào thế kỷ 6 trước Công Nguyên, được chép trong bộ Đạo Đức Kinh 道德經 (hai quyển, tám mươi mốt chương, gần năm ngàn chữ Nho).

([5]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận Tư, Sài Gòn), 01-3 Bính Ngọ (Thứ Ba 22-3-1966),

([6]) Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân, quận Tư, Sài Gòn), 02-12 Ất Tỵ (Thứ Sáu 24-12-1965).

([7]) NĐCT 2022, tr. 487-494.

([8]) Phước Huệ Đàn (Tam Kỳ, Quảng Nam), 08-11 Kỷ Hợi (Thứ Hai 07-12-1959). Ngô thị 吾是: Ta là. biện : Phân biệt, nhận rõ.

([9]) Christ (Cơ Đốc 基督): Do gốc Hy Lạp là “Christus; Khristos”, nghĩa là “Đấng được xức dầu”; tiếng Việt phiên âm là “Ki-ri-xi-tô”, nói tắt là “Ki-tô”. Chúa Giê-su là Đức Ki-tô vì Người được xức dầu bằng Thánh Linh 聖靈 (Chúa Thánh Thần; Thần Khí 神氣) để đảm nhận sứ vụ cứu thế.

([10]) Ngô Đạo 吾道: Đạo của Ta. (Đọc quán thủ thì họ Ngô viết là .)

([11]) Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng), 09-9 Bính Thân (Thứ Sáu 12-10-1956).

([12]) Phạm Văn Liêm kết tập, Huệ Khải và Lê Anh Minh hiệp chú. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2024. Quyển 160-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo