Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

GIẢI NGHĨA KINH NHỰT THỜI / 2. KHAI KINH

 


 

2. KHAI KINH

1. Biển trần khổ vơi vơi trời nước

Ánh thái dương giọi trước phương Đông

Lão Quân Đạo Tổ Đẩu Cung

Ra tay dẫn độ dày công giúp đời

5. Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy

Gốc bởi lòng làm phải làm lành

Trung dung Khổng Thánh chỉ rành

Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn

9. Phép Tiên Đạo tu chơn dưỡng tánh

Một cội sanh ba nhánh in nhau

Làm người rõ thấu lý sâu

Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.

(Cúi đầu không lạy)

XUẤT XỨ

Bài này do Đức Lữ Tổ ban cho Minh Lý Đạo (trước tháng 5-1925).([1]) Khi mới thành lập nền tảng phổ độ của đạo Cao Ðài vào năm 1926 (Bính Dần), Ðức Chí Tôn dạy các tiền khai Đại Đạo đến Minh Lý Đạo thỉnh kinh. Trong lúc ấy các tiền khai ở Minh Lý Đạo cũng được Ơn Trên giáng cơ dạy chuẩn bị truyền kinh. Bài Khai Kinh đã được Minh Lý Đạo truyền sang đạo Cao Đài như thế.

Đức Lữ Tổ 呂祖 là vị thứ ba trong Bát Tiên 八仙. Ngài họ Lữ; tên Nham [] (nham là núi cao); tự Động Tân 洞賓, nên còn gọi là Lữ Động Tân. Động là nơi Tiên ở; Tân là khách; Động Tân là vị khách cõi Tiên (nhưng người Việt quen nói chệch ra là Đồng Tân). Ngài có hiệu là: Hồi Đạo Nhân 回道人; Hồi Đạo Sĩ 道士 (chữ Hồi là biến thể của chữ Lữ vì đều gồm hai chữ khẩu ). Các hiệu khác là: Phù Hựu Đế Quân 孚佑帝君; Thuần Dương Tổ Sư 純陽 祖師; Thuần Dương Tử 純陽子, Thuần Dương Diễn Chánh Cảnh Hóa Phù Hựu Đế Quân Hưng Hành Diệu Đạo Thiên Tôn 純陽演正警化孚佑帝君興行妙道天尊 ... Ngài sinh vào đời Đường (Trung Hoa), khoảng năm 755. Đạo Giáo Trung Hoa kỷ niệm Thánh đán của Tổ vào ngày 14 tháng 4 âm lịch. Sư phụ Ngài họ là Chung Ly 鐘離, tên là Quyền , sống vào đời Hán (Hớn), nên cũng gọi là Hán (Hớn) Chung Ly 漢離權, đứng đầu Bát Tiên.

GIẢI NGHĨA

Nhan đề:

khai kinh 開經: Mở đầu việc tụng kinh.([2]) Ở đây nghĩa là mở đầu mười một bài trong Kinh Nhựt Thời, từ bài “Ngọc Hoàng Bửu Cáo” tới bài “Kinh Cầu Nguyện Đức Chí Tôn Và Phật Tiên, Thánh Thần”.

Ghi chú: KNT 2016NĐCT 2022 đều in nhan đề là Khai Kinh. Bản gốc KSH 1931 in là Bài Khai Kinh.

Câu 1: Biển trần khổ vơi vơi trời nước.

biển trần khổ: Cõi trần là biển khổ (khổ hải 苦海) và chúng sanh bị chìm đắm trong đó. Chánh pháp ví như chiếc thuyền bát nhã (bát nhã thuyền 般若船) hay chiếc bè quý (bảo phiệt; bửu phiệt 寶筏) đưa khách trần thoát khỏi biển khổ trầm luân sang bờ giác (giác ngạn 覺岸) ở bên kia biển, tức là đáo bỉ ngạn 到彼岸 (qua tới bờ bên kia).

vơi vơi: Rộng lớn minh mông (mênh mông). vơi vơi trời nước: Minh mông chẳng thấy bến bờ, chỉ thấy bầu trời và mặt nước.

u Câu 1 ý nói: Sự khổ ở đời quá lớn, vô cùng tận (vì chúng sanh sống trong màn vô minh tăm tối).

Câu 2: Ánh thái dương giọi trước phương Đông.

thái dương 太陽: Mặt trời.

giọi: Rọi; chiếu.

u Câu 2 ý nói: Ánh mặt trời chiếu sáng ở phương Đông, nghĩa là bình minh xuất hiện, xóa tan màn đêm tăm tối. Nghĩa bóng là ánh sáng chánh pháp xuất hiện, dẫn dắt chúng sanh ra khỏi vô minh tăm tối, thoát khỏi biển khổ.

Câu 3: Lão Quân Đạo Tổ Đẩu Cung.

Lão Quân 老君: Nói đủ là Thái Thượng Lão Quân 太上 老君, cũng gọi Lão Tử 老子.

Đạo Tổ 道祖: Ông Tổ của đạo Lão (Lão Giáo 老教, Đạo Giáo 道教, Tiên Giáo 仙教), cũng nói là Thái Thượng Đạo Tổ 太上道祖, tức là Đức Lão Tử.

Đẩu Cung: Nói trại từ “Đâu Cung”, tức là Đâu Suất Cung 兜率宮, nơi ngự của Đức Lão Tử.

Ghi chú: KNT 2016 NĐCT 2022 đều in là “Lão Quân Đạo Tổ Đẩu Cung”. Bản gốc KSH 1931 in là “Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông”.

Câu 4: Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.

ra tay: Đưa tay làm việc gì (chữ Nho là hạ thủ 下手).

dẫn độ 引渡: Cũng như độ dẫn 渡引, dẫn dắt ai bước vào đường tu hành.

dày công giúp đời: Tốn nhiều thời gian và công sức trợ giúp người đời học Đạo, tu luyện thành Tiên, không còn luân hồi (trường sanh bất tử 長生不死). Một trong các kỳ công giúp đời của Đức Lão Tử là bộ Đạo Đức Kinh 道德經, gồm hai quyển, tám mươi mốt chương, tổng cộng gần năm ngàn chữ Nho.

u Câu 3-4 ý nói: Đức Lão Quân là Tổ Sư của đạo Lão, ngự tại cung Đâu Suất, rất dày công dẫn dắt người đời bước vào đường tu Tiên.

Câu 5-6: Trong Tam Giáo có lời khuyến dạy / Gốc bởi lòng làm phải làm lành.

Tam Giáo 三教: Gồm có Nho (đạo Khổng), Lão (đạo Tiên), Thích (đạo Phật). Đạo Nho và đạo Lão ra đời ở Trung Hoa; đạo Phật ra đời ở Ấn Độ.

Ghi chú: KNT 2016 NĐCT 2022 đều in là khuyến dạy. Bản gốc KSH 1931 in là “khuyên dạy”. Cả hai nghĩa như nhau; “khuyến” tức là “khuyên”.

u Câu 5-6 ý nói: Tam Giáo đều dạy chúng sanh rằng căn bản của con người là làm phải làm lành.

Câu 7-8: Trung dung Khổng Thánh chỉ rành / Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.

trung dung 中庸: Người đời thường hiểu trung dung là không nghiêng về bên nào, không quá mức (thái quá 太過) mà cũng không thiếu sót (bất cập 不及). Thí dụ: Suốt cả học kỳ cứ bỏ bê sách vở, chẳng thèm học hành; vậy là bất cập. Gần tới kỳ thi mới thức khuya dậy sớm, bỏ cả ngủ nghỉ để học bài; vậy là thái quá. Học hành như thế thì người đời trách là không biết trung dung.

Đức Khổng Tử dạy đạo trung dung. Cháu đích tôn của Ngài là Tử Tư 子思 soạn lại lời Ngài giảng thành sách Trung Dung; đây là quyển thứ hai trong bộ Tứ Thư 四書 (gồm có: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ,Mạnh Tử 大學, 中庸, , 孟子). Trung Dung vốn là một chương trong sách Lễ Ký 禮記. Theo Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ (1921-2014), sách Trung Dung gồm ba mươi ba chương, nhưng thâu tóm lại chỉ có một chữ thành . Thành là hoàn thiện, khởi đầu từ lòng kính sợ có Trời tiềm ẩn ngay trong lòng mình, rồi trải qua quá trình tu học, rèn luyện, phát huy mọi phẩm chất cao quý sẵn có ở bản thân cho tới chỗ vô cùng tốt đẹp (chí thiện 至善), và kết thúc bằng sự hợp nhứt với Trời (phối Thiên 配天).([3])

Khổng Thánh 孔聖: Đức Khổng Tử 孔子.

chỉ rành: Chỉ dạy, dẫn dắt rõ ràng, rành rẽ.

từ bi 慈悲: Tình thương yêu (từ) và lòng thương xót (bi). Trời Phật, Tiên Thánh, Bồ Tát luôn luôn tìm cách ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sanh, cho nên các Đấng có lòng đại từ đại bi. Đại Trí Độ Luận (quyển 27) chép: “Đại từ là ban vui cho tất cả chúng sanh. Đại bi là diệt khổ cho tất cả chúng sanh.” ([4])

dn: Dặn dò; nói cho nhớ mà làm theo. Thí dụ: Ra đi mẹ dn rằng / Làm thân con gái chớ ăn trầu người. (Ca dao)

lòng thành lòng nhơn: Lòng thành thật và nhơn ái (thương người thương vật).

u Câu 7-8 ý nói: Đức Khổng Tử dạy đạo trung dung. Đức Phật dạy từ bi, dặn dò chúng sanh hãy sống lương thiện (làm phải làm lành).

Câu 9: Phép Tiên Đạo tu chơn dưỡng tánh.

phép: Pháp ; phương pháp 方法; cách thức.

Tiên Đạo: 仙道: Đường lối tu Tiên. (Tu theo đạo Lão là tu Tiên.)([5])

tu chơn dưỡng tánh 修真養性: Học đạo tu hành, hàm dưỡng tánh tình 學道修行, 涵養性情.

Ghi chú: Dưỡng tánh là nuôi dưỡng bổn tánh sẵn có, không để bổn tánh bị tổn thương. Nuôi dưỡng bằng cách tự xem xét bản thân, làm cho thân và tâm đạt tới trạng thái hoàn hảo.([6])

Câu 10: Một cội sanh ba nhánh in nhau.

một cội: Một gốc lớn, ám chỉ Đại Đạo 大道.

ba nhánh: Tức là Tam Giáo, phát xuất từ Đại Đạo, giống như ba nhánh mọc ra từ một cội cây to lớn.

in nhau: Giống nhau; y hệt nhau; không khác nhau.

u Câu 10 ý nói: Tam Giáo (Nho, Lão, Phật) về hình thức có khác nhau nhưng thực chất là y hệt nhau, ví như ba nhánh cây cùng mọc ra từ một gốc lớn là Đại Đạo.

Câu 11-12: Làm người rõ thấu lý sâu / Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.

rõ thấu: Hiểu rõ ràng, thấu suốt (từng kẽ tóc chân tơ).

lý sâu: Nghĩa lý sâu xa (không dễ hiểu; do đó, cần gắng công học hỏi, nghiền ngẫm).

sửa lòng trong sạch: Bỏ lòng gian tà, tham sân si, dục vọng; nuôi lòng đạo đức, thanh tĩnh, lương thiện.

Theo chủ đích bài kinh này, “sửa lòng trong sạch” còn có nghĩa là gạt bỏ lòng đố kỵ, phân biệt tôn giáo, kỳ thị tín ngưỡng (khen đạo mình mà chê bai, chống đối đạo khác).

tụng cầu 誦求: Tụng kinh và cầu nguyện.

Thánh kinh 聖經: Kinh dạy đạo lý mầu nhiệm, cao siêu.

u Câu 11-12 ý nói: Hình thức ba tôn giáo (Nho, Lão, Phật) tuy khác nhau nhưng cốt tủy lại giống nhau, cũng như ba nhánh nảy sanh từ một gốc lớn. Hiểu rõ lý lẽ sâu xa này rồi thì hãy bỏ óc phân biệt tôn giáo, kỳ thị tín ngưỡng, và hãy giữ lòng ngay thẳng, trong sạch để tụng kinh, cầu nguyện.

TỔNG LUẬN

Câu 1 cho thấy cảnh khổ của chúng sanh như biển khơi trời nước minh mông.

Câu 2 cho thấy hình ảnh mặt trời lố dạng buổi bình minh (ví như chánh pháp tỏ sáng). Như vậy, câu 2 ngụ ý nói rằng chánh pháp xuất hiện ở thế gian là để cứu vớt chúng sanh ra khỏi biển khổ. Nếu không vì mục đích cứu khổ của chúng sanh thì có lẽ chẳng cần chánh pháp ra đời. Như vậy, chánh pháp và chúng sanh không thể chia lìa.

Từ câu 5 đến câu 10 ngụ ý rằng tuy đạo Nho dạy trung dung, đạo Phật dạy từ bi, đạo Lão dạy tu chơn dưỡng tánh, rốt cuộc đều không ngoài cái nền tảng căn bản là con người phải có lòng nhân ái, đức độ, lương thiện.

Câu 9 nói về tu chơn dưỡng tánh. Đây là phương pháp tu luyện của đạo Lão để được giải thoát (thành Tiên), thoát khỏi luân hồi (trường sanh bất tử). Tu chơn dưỡng tánh chủ yếu gồm có: (a) Thực hành các bài tập dưỡng sanh (để điều hòa hơi thở, vận động khí huyết, giúp tăng cường sức khỏe và tinh thần); (b) Học hỏi kinh điển như Đạo Đức Kinh; Thanh Tĩnh Kinh; Huỳnh Đình Kinh, Dịch Kinh, v.v...; (c) Thiền định (tĩnh tọa; tọa thiền); (d) Tu dưỡng đạo đức (bác ái, thương người thương vật; khiêm tốn; nhẫn nhịn; giản dị; thật thà); (e) Sống hòa hợp với thiên nhiên; ăn uống điều độ (ăn chay); biết đủ (không tham lam, chẳng ham muốn tích trữ của cải).

Tu chơn dưỡng tánh là một quá trình lâu dài để hoàn thiện bản thân và đòi hỏi người tu luyện (hành giả 行者) có lòng kiên trì, nhẫn nại, và thực hành thường xuyên. Mục tiêu cuối cùng của tu chơn dưỡng tánh là đạt Đạo, tức là giác ngộ, thấu hiểu bản chất của vũ trụ và cuộc sống, bản thân sống một đời an nhiên, không bị ràng buộc (tự tại ), và hạnh phúc.

Câu 10 ngụ ý nói rằng Tam Giáo đồng nguyên (Nho, Thích, Lão cùng một nguồn gốc), ví như ba nhánh đều nảy sanh từ một gốc cội lớn (Đại Đạo). Không chỉ riêng Tam Giáo mà mọi chánh giáo khác cũng xuất phát từ Đại Đạo, cũng vì mục đích cứu khổ chúng sanh.

Phương tiện (cách tu hành, giáo lý...) của mỗi tôn giáo có thể khác biệt nhưng cái chung vẫn là “gốc bởi lòng làm phải làm lành”. Thế nên, Cao Đài xướng lên: Tam Giáo đồng nguyên, vạn giáo nhứt lý 三教同源, 萬教一理.

Khi người tu hành, học đạo hiểu rõ những lý lẽ sâu xa nói trên (câu 11: Làm người rõ thấu lý sâu) thì phải biết bỏ óc phân biệt, kỳ thị tín ngưỡng, và hãy biết giữ lòng ngay thẳng, trung thực để tụng kinh, cầu nguyện (câu 12: Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh).

Theo bản gốc KSH 1931, tụng Bài Khai Kinh trước khi tụng Kinh Sám Hối (Cuộc danh lợi là phần thưởng quý...). Thế nên, theo bản gốc KSH 1931, nói “Thánh kinh” tức là Kinh Sám Hối. Nhưng khi đưa Khai Kinh vào Kinh Nhựt Thời, thì “Thánh kinh” tức là mười một bài từ bài “Ngọc Hoàng Bửu Cáo” tới bài “Kinh Cầu Nguyện Đức Chí Tôn Và Phật Tiên, Thánh Thần”. Chữ “Thánh” trong “Thánh kinh” có nghĩa là thiêng liêng, không phải trần tục.

Câu 11-12 còn ngụ ý rằng một khi đã hiểu rõ những nghĩa lý sâu xa do Tam Giáo dạy bảo, thì hãy làm đúng theo những lời dạy này để sửa lòng cho trong sạch, bản thân trở nên người đạo đức. Đây mới là mục đích thực sự của việc tụng kinh: Tụng kinh không phải để cho Trời Phật nghe, mà tụng kinh cốt để nhắc nhở mình trau dồi đạo đức, hạnh kiểm. Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:

Không phải Phật thiếu kinh thường dụng

Bảo chúng sanh đem tụng Phật nghe

(...)

Sách kinh là đuốc rọi đàng

Dạy đời học Đạo hành tàng thế nao

Vì lẽ đó, cùng nhau rán hiểu

Đọc kinh coi Phật biểu làm chi

Rán làm ăn ở cho y

Tánh tình cùng những hành vi Phật Trời.([7])

*

Kinh Nhựt Thời xưng tán Tam Giáo và Chúa Giê-su (Gia Tô Giáo Chủ). Thế nên, Kinh Nhựt Thời là kinh cho cả Tứ Giáo (Tam Giáo cộng thêm đạo Chúa).

Xưa kia, nhơn sanh chỉ mới biết tới Tam Giáo đồng nguyên, nhưng đạo Cao Đài ra đời lại phát triển thành Tứ Giáo đồng nguyên 四 教同源.

Chẳng hạn, Đức Ngô Minh Chiêu dạy như sau:

Kìa Tứ Giáo (Phật, Tiên, Gia, Khổng)

Khai sanh môn truyền thống khắp nơi

Đều do nguyên lý của Trời

Giáng sanh cõi thế cứu đời độ dân.([8])

 Người nào đã biết tụng Kinh Nhựt Thời thì cũng nên biết kính trọng Tứ Giáo ngang nhau, và lãnh hội được lý lẽ Tứ Giáo đồng nguyên trong Tam Kỳ Phổ Độ.

Kinh Nhựt Thời dạy cho chúng sanh hiểu rõ rằng Tứ Giáo đồng nguyên, vạn giáo nhứt lý, cốt để giác mê cho những ai còn nặng óc kỳ thị tín ngưỡng (phân biệt tôn giáo), giúp họ thức tỉnh.

Biết rõ như thế thì hiểu thêm vì sao giới nghiên cứu tôn giáo trên thế giới đem lòng ngưỡng mộ và hoan hỷ đồng thuận rằng đạo Cao Đài là một tôn giáo bao dung, hòa đồng vạn giáo, luôn luôn cổ võ cho tình thân ái liên tôn giáo để cùng nhau hợp tác xóa bỏ mọi mầm mống độc hại gây chia rẽ tôn giáo, ngăn chận nguy cơ xảy ra chiến tranh tôn giáo như đã được ghi chép trong các trang sử đau thương của loài người vào mấy thế kỷ tăm tối trước kia.

Huệ Khải



([1]) Xem thêm “Xuất xứ” bài “Niệm Hương”.

([2]) Theo bản gốc KSH 1931, tụng Bài Khai Kinh để mở đầu việc tụng Kinh Sám Hối (Cuộc danh lợi là phần thưởng quý ...).

([3]) Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ, Trung Dung Tân Khảo. Quyển I, Chương 7: Xuất Xứ Và Đại Ý Trung Dung.

([4]) Đại từ năng dữ nhứt thiết chúng sanh chi lạc. Đại bi năng bạt nhứt thiết chúng sanh chi khổ. 大慈能與一切眾生之樂. 大悲能拔 一切眾生苦. (大智度論)

([5]) Tu theo Cao Đài cũng là tu Tiên, vì Giáo Chủ đạo Cao Đài là Cao Đài Tiên Ông. Thánh giáo gọi môn sanh Cao Đài là học trò Tiên.

([6]) Dưỡng tánh: Sử bổn tánh bất thụ tổn hại. Thông quá tự ngã phản tỉnh thể sát, sử thân tâm đạt đáo hoàn mỹ đích cảnh giới. 養性: 使 本性不受損害. 通過自我反省體察, 使身心達到完美的境界.

([7]) Giáo Hội Tiên Thiên Minh Đức (Mỹ Tho), 20-9 Đinh Mùi (Thứ Hai 23-10-1967).

([8]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận Tư, Sài Gòn), 01-3 Bính Ngọ (Thứ Ba 22-3-1966).