6. KÍNH LẠY ĐỨC ĐẠO TỔ
LÃO QUÂN
1.
Cúi cầu Đạo Tổ Lão Quân
Thanh
hư Đạo Đức cạn phân Đạo mầu
Chúng
tôi muôn lạy khấu đầu
Chí
thành cảm ứng khẩn cầu chơn kinh
5.
Chúng tôi thân phận hậu sinh
Chí
tâm mộ Đạo giữ gìn huyền công
Thảy
đều một dạ một lòng
Nỗi
vì mối Đạo minh mông khôn tường
9.
Muôn cầu rộng lượng xin thương
Dạy
người chỉ lối mở đường chúng tôi
Ngây
thơ mờ tối vô hồi
Mà
lòng quyết chí trau giồi bổn căn
13.
Cúi xin rưới chút hồng ân
Cúi
xin chỉ mối đặng phăn đặng tìm
Thinh thinh trời lặng gió êm
Nguơn thần phước được chơn kim
đơn thành
17. Phi đằng thổ nạp trường
sanh
Siêu phàm nhập Thánh, Huỳnh
Đình hóa thân
Lạy cầu Đạo Tổ Lão Quân
Thanh hư Đạo Đức cạn phân Đạo
mầu.
(Cúi đầu không lạy)
XUẤT XỨ
Bài này do Đức Thể Liên Tiên Nữ
ban cho, ngày 04-7 Canh Ngũ (Thứ Tư 27-8-1930), có ở trang 19 cuốn KNT 1932a. Theo trang 16, đàn ban kinh này do Đức Quan Thánh
Đế Quân vâng lịnh Đức Chí Tôn chứng đàn. Ngài xưng danh qua bài ngũ ngôn tứ
tuyệt quán thủ là “Quan Vân Trường chứng”
và dạy: “Ta vưng lịnh Đức Chí Tôn chứng đàn cho Thể Liên
Tiên Nữ giáng bút dạy Kinh Nhựt Thời làm lễ Đức Chí Tôn, Đức Thánh Mẫu ([1]) và chư Đại Nhơn Tam
Giáo.” ([2])
GIẢI NGHĨA
Câu 1-2: Cúi cầu Đạo Tổ Lão
Quân / Thanh hư Đạo Đức cạn phân Đạo mầu.
cúi: Bản gốc KNT 1932a in là “lạy”, nhưng KNT
2016, NĐCT 2022 đều in là “cúi”, có lẽ vì
Hội Thánh quy định ở cuối bài kinh là “Cúi đầu không lạy”. Tuy nhiên, câu 19 ở hai bản KNT 2016, NĐCT
2022 vẫn giữ nguyên chữ “lạy”. Bài
kinh này được viết theo thể “lục bát thủ vĩ”, bốn câu 1-2
và 19-20 giống nhau; do đó, nên sửa lại câu 1 là “lạy” theo đúng với bản gốc KNT 1932a và giống với câu 19.
cầu: Cầu nguyện 求願; van vái.
Đạo Tổ 道祖: Nói đủ là Thái
Thượng Đạo Tổ 太上道祖, cũng
là Đức Lão Tử 老子.
Ngài là Tổ Sư 祖師 (ông
Tổ) của Đạo Giáo (đạo Lão, đạo Tiên).
Lão Quân 老君: Nói đủ
là Thái Thượng Lão Quân 太上 老君, cũng
là Đức Lão Tử.
thanh 清: Trong
trẻo. – hư 虛: Hư
vô; trống rỗng. – thanh
hư: Nói đủ là thanh tịnh hư vô 清淨虛無 (cõi hư vô thanh
tịnh) hay thanh khiết hư không 清潔虛空 (cõi hư không thanh khiết).
Đạo Đức: Tức là Đạo Đức Kinh 道德經, do Đức Lão Tử truyền
dạy. Kinh này có tám mươi mốt chương, khoảng năm ngàn chữ Nho, chia làm hai
phần là Thượng Kinh (quyển đầu, các chương
1-37) và Hạ Kinh (quyển cuối, các chương
38-81). Nhan đề là Đạo Đức Kinh vì chương
1 bắt đầu bằng chữ Đạo 道, và chương 38 bắt đầu bằng hai chữ thượng đức 上德.
cạn phân: Bày tỏ hết
lời hết ý.
Đạo mầu: Đạo cao
sâu, huyền diệu.
u Câu 1-2 ý nói: Chúng đệ tử lạy và cầu nguyện Đức Lão Quân là
Tổ Sư của đạo Lão. Đạo Đức Kinh của
Ngài tỏ bày cặn kẽ về Đạo cao sâu,
huyền diệu, thanh tịnh, hư vô.
Câu 3-4: Chúng tôi muôn lạy khấu đầu / Chí
thành cảm ứng khẩn cầu chơn kinh.
muôn lạy: Lạy vô số
lần. Ngụ ý là vô cùng thiết tha, rất mực thành khẩn; cùng nghĩa với “trăm lạy, ngàn lạy”.
khấu đầu 叩頭: Khấu thủ 叩首;
khể thủ 稽首; cúi mình quỳ lạy, đầu áp sát xuống đất.
chí thành 至誠: Rất chơn
thành 真誠; rất thành khẩn 誠 懇.
cảm ứng 感應: Người lấy lòng chí thành cảm động tới Thần Thánh thì Thần Thánh đáp ứng
lại lòng người.
khẩn cầu 懇求: Hết lòng cầu xin; thành khẩn cầu xin.
chơn kinh: Chân kinh 真經; kinh chơn thiệt, chỉ
cách tu hành đúng để đắc Đạo.
u Câu 3-4 ý nói: Chúng đệ tử hết lòng thành khẩn, thiết tha quỳ
lạy, cầu xin Đức Lão Tử cảm ứng ban cho chơn kinh để tu hành đắc Đạo. (Ở đây có
lẽ là chơn kinh vô tự dạy tu thiền,
vì Ngài đã ban trao Đạo Đức Kinh rồi.)
Câu 5-6: Chúng tôi thân phận hậu sinh / Chí
tâm mộ Đạo giữ gìn huyền công.
thân phận 身分(份): Địa vị và
hoàn cảnh của một người trong xã hội; còn nói tắt là “phận”. Thí dụ: thân phận
bọt bèo – “Thương thay thân phận con rùa / Trong đình hạc
cỡi, sau chùa đội bia!” (Ca dao) – “Đau đớn thay phận đàn
bà! / Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?” (Nguyễn Du)
hậu sinh 後生: Kẻ sinh sau.
chí tâm 至心: Hết lòng.
mộ Đạo 慕道: Ham thích tu hành.
huyền công 玄功: Công phu 功夫 tu tịnh (ngồi thiền).
u Câu 5-6 ý nói: Chúng đệ tử là kẻ sinh sau, hết lòng ham thích
tu hành, giữ gìn pháp môn tịnh luyện.
Câu 7-8: Thảy đều một dạ một lòng / Nỗi vì mối
Đạo minh mông khôn tường.
thảy: Tất cả. (Thường nói: cả thảy; hết thảy.)
một dạ một lòng: 1/ Một mực trung thành, không thay đổi lòng dạ. – 2/ Tận tụy, đem hết tâm lực để cống hiến.
nỗi vì: Hiềm vì; khổ nỗi;
khốn nỗi; ngặt nỗi; ngặt vì.
minh mông: Mênh mông; vô biên 無邊; vô cùng rộng lớn; không giới hạn.
tường 詳: Biết
rõ; tỏ tường. – khôn tường: Không thể biết
rõ.
u Câu 7-8 ý nói: Tất cả chúng đệ tử một lòng chung thủy, dốc chí tu
hành nhưng hiềm vì Đạo vô cùng sâu rộng nên không thể hiểu biết
rõ ràng.
Câu 9-10: Muôn cầu rộng lượng xin thương / Dạy
người chỉ lối mở đường chúng tôi.
muôn cầu: Cầu xin vô số lần. Ngụ ý là vô cùng
thiết tha, rất mực thành khẩn.
rộng lượng: Đại lượng 大量; có lòng bao dung, tha thứ, thương
người.
dạy người: Sai người
tới (để giúp).
u Câu 9-10 ý nói: Chúng đệ tử tha thiết cầu xin Ngài bao dung,
thương xót, sai người tới soi đường dẫn lối cho chúng đệ tử tu hành.
Câu 11-12: Ngây thơ mờ tối vô hồi / Mà lòng
quyết chí trau dồi bổn căn.
ngây thơ: Khờ dại,
thiếu kinh nghiệm, dễ bị lừa gạt.
mờ tối: Vô minh 無明; không sáng suốt, ngu dốt.
vô hồi 無回: Vô số lần; rất nhiều lần.
quyết chí 決志: Nhứt định 一定; không đổi ý
thay lòng.
trau giồi (dồi): Bồi
bổ, bồi dưỡng, rèn luyện cho đầy đủ, cho tốt đẹp thêm, cho giỏi hơn.
bổn căn: Bản căn 本根. Cái vốn
liếng thiêng liêng Trời ban cho mỗi người; biết bồi bổ nó bằng cách tu hành
chơn chánh thì có thể trở thành Hiền Thánh, Tiên Phật. Theo Cao Đài, Trời là Đại Linh Quang 大靈光; người là tiểu linh quang 小靈光; vậy, vốn
liếng thiêng liêng đó là linh quang 靈光 (ánh sáng thiêng liêng).
u Câu 11-12 ý nói: Chúng đệ tử ngây thơ, biết bao lần u tối (nên cứ lầm lạc);
tuy nhiên, chúng đệ tử vẫn quyết chí trau dồi bổn căn thiêng liêng Trời đã ban
cho.
Câu 13-14: Cúi xin rưới chút hồng ân / Cúi xin
chỉ mối đặng phăn đặng tìm.
rưới: 1/ Tưới đều
từng chút cho thấm vào và rê đi cùng khắp. – 2/ Ban bố đều khắp mọi nơi. Thí dụ: “Rưới
ra đã khắp, thấm vào đã sâu.”
(Nguyễn Du) – Ơn phước Trời Phật ban xuống thấm
nhuần muôn loài được ví như mưa móc (mưa và sương, tức võ lộ 雨露); do đó, thường nói là “rưới; chan rưới”.
chút: Chút ít;
chút xíu. (Cách nói khiêm tốn khi cầu xin.)
hồng ân 洪恩: Ơn huệ to tát.
chỉ mối: Chỉ dẫn cho
thấy đầu mối (để khỏi lầm lạc).
đặng phăn: Để lần mò
từng chút, lần theo dấu vết mà tìm cho ra. Thí dụ: “Đôi ta như chỉ trong vòng / Phăn chưa ra mối trong lòng còn e.” (Ca dao)
đặng tìm: Để tìm
thấy.
u Câu 13-14 ý nói: Chúng đệ tử cúi lạy, cầu xin Ngài ban hồng ân,
chỉ nẻo soi đường cho chúng đệ tử lần dò theo đó mà tìm thấy pháp môn để tu
luyện.
Câu 15-16: Thinh thinh trời lặng gió êm / Nguơn thần
phước được chơn kim đơn thành.
thinh thinh: Thênh
thênh; mênh mông; bao la bát ngát.
trời lặng gió êm: Ám chỉ tâm thanh tịnh, phẳng lặng, không bị lục dục thất tình dấy động,
nổi sóng nổi gió.
nguơn thần 元神: Đây là yếu tố (nhân tố) quan trọng trên hành trình tu luyện. (Xem giải
nghĩa ở hai câu 3-4 trong bài “Kính Lạy Đức
Diêu Trì Kim Mẫu”.)
phước được: Có phước
nên mới được (điều gì cực kỳ quý hiếm).
chơn kim 真金: Nghĩa đen là “vàng thiệt”. Tục ngữ nói: “Vàng thiệt không sợ lửa.” (Chơn kim bất phạ hỏa. 眞金不 怕火.) Do đó, “nguơn
thần” được đạo sĩ tu thiền (hành giả tịnh luyện) gọi là “chơn kim” bởi lẽ: Nguơn thần ngàn đời chẳng hư hoại, càng tu
luyện càng sáng tỏ.([3])
đơn (đan) 丹: Cơ thể con người có sẵn âm 陰 và dương 陽. Bằng cách tu thiền (tịnh luyện) hòa hợp được âm
và dương thì sản sanh ra “đơn”. Thế
nên đạo sĩ gọi tịnh luyện là “luyện đơn” 煉丹. “Đơn” cũng
là thuốc tễ, do đó đạo sĩ còn gọi tu tịnh (thiền) là “luyện đơn nấu thuốc”. “Đơn” còn được gọi là “kim đơn” 金丹 vì “kim” là
vàng, một thứ quý báu, bền bỉ (bất hoại
不壞).
đơn thành 丹成: Thành công của người tu thiền (hành giả tịnh luyện) tạo
được “đơn” hay “kim đơn” 金丹. Muốn thành Tiên, trường sanh bất tử (không còn luân hồi),
thì phải luyện thành kim đơn, tức là “đơn
thành”.
u Câu 15-16 ý nói: Tâm người rất bao la, lớn rộng. Khi tâm thanh
tịnh, hành giả tịnh luyện sẽ thành công vì luyện được kim đơn không hư hoại.
Câu 17-18: Phi đằng thổ nạp trường sanh / Siêu
phàm nhập Thánh, Huỳnh Đình hóa thân.
phi đằng 飛騰: Bay
vút lên. (Ý nói người tu đắc Đạo thì khi bỏ xác phàm, linh hồn siêu thăng thượng
giới.)
thổ 吐: Nhả ra; thở ra. – nạp 納: Hít vào. –
thổ
nạp: Nói đầy đủ là thổ cố nạp tân
吐故納新 (nhả ra hơi cũ, hít vào hơi mới), tức là thở ra để tống đi hết các khí bẩn (trọc khí 濁氣) rồi chầm chậm hít vào khí sạch (thanh khí 清氣) để trừ khử
tật bệnh. Các đạo sĩ thực hành thổ
nạp để kéo dài tuổi thọ (trường sanh 長生); thế nên thổ nạp
là phương pháp dưỡng sanh 養生 của đạo Lão.([4])
trường sanh 長生: Sống lâu. Tu theo đạo Lão là để thành Tiên 仙, được trường sanh bất tử 長生不死 (khi
bỏ xác phàm thì linh hồn trở về cõi Tiên, khỏi phải luân hồi).
siêu phàm nhập Thánh 超凡入聖: Vượt
lên khỏi cõi phàm tục mà đi vào cõi Thánh (tức là đắc Đạo 得道).
Huỳnh Đình 黃庭: “Huỳnh
(hoàng)” là màu vàng tượng trưng cho trung tâm.([5]) “Đình” là trung tâm của bốn phương.([6]) Do đó, “Huỳnh
Đình” ám chỉ trung tâm của cơ thể, là nơi kết tụ kim đơn.
hóa thân 化身: Biến hóa ra thân khác, tức là từ phàm tục trở
thành Tiên Thánh. Hiểu theo thiền pháp Cao Đài là tạo được nhị xác thân (xác thân thứ hai, vô hình).
u Câu 17-18 ý nói: Bằng cách tịnh luyện, kết thành kim đơn ở
Huỳnh Đình thì người tu thoát khỏi cõi phàm, linh hồn trở về cõi Thánh (cõi
Tiên) sau khi bỏ xác.
Câu 19-20: Lạy cầu Đạo Tổ Lão Quân / Thanh hư
Đạo Đức cạn phân Đạo mầu.
Trong bài thơ “lục bát thủ vĩ”, hai câu kết này lặp lại hai câu mở đầu
(đã giải thích ở trên).
TỔNG LUẬN
1. Hai câu 15-16 (Thinh thinh trời
lặng gió êm / Nguơn thần phước được chơn kim đơn thành) nói lên chỗ cốt lõi của tu thiền (tịnh luyện;
công phu) là giữ tâm thanh tịnh.
Hành giả tu tịnh lâu năm có thể ngồi thiền suốt một giờ, nhưng thử hỏi: Trong
sáu mươi phút ấy có bao nhiêu giây phút mà tâm và ý thực sự được thanh tịnh? Bao
nhiêu giây phút mà tâm và ý cứ như khỉ vượn nhảy nhót leo chuyền? hoặc cứ như con
ngựa thả rong mặc tình tung vó? Cái tâm, cái ý lăng xăng, không chịu ở yên như
thế được các hành giả tu thiền gọi là “tâm
vượn, ý ngựa” (tâm viên, ý mã 心猿 意馬).
Ai đã tập tọa thiền rồi thì rất thấm thía chỗ này: Bề ngoài, nhìn tướng
ngồi nghiêm trang, bất động chẳng khác chi pho tượng, nhưng trong tâm thì vô
vàn ý nghĩ tới lui. Ngồi yên một chỗ mà tâm ý cứ rong chơi khắp ta bà thế giới;
muôn điều vạn sự quá khứ và tương lai cứ nối tiếp nhau dồn dập diễn ra trong
tâm ý, và tâm ý như đang nổi dông nổi gió, như sóng biển cuộn trào lớp lớp.
Bởi vậy, kết quả tu thiền chẳng tùy thuộc vào thời gian thực hành là bao
nhiêu ngày, bao nhiêu năm tháng mà cốt yếu chỉ ở tâm thanh tịnh. Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
Một giờ thanh tịnh một giờ linh
Nên Đạo hay không cũng bởi mình.
Chẳng phải mấy ngày, năm tháng cũng ... ([7])
2. Bốn chữ “trời
lặng gió êm” trong câu 15 gợi nhớ tới lời Đức Chí Tôn dạy con cái phải giữ tâm thanh tịnh:
Biển êm lặng minh châu mới hiện
Tâm con thường như biển gió dông
Muốn yên con phải lóng lòng ... ([8])
3. Bí quyết thành tựu của công phu tu luyện là tâm thanh tịnh. Mọi cấp bực pháp môn (dù
thấp hay cao) chung quy đều là phương tiện. Lãnh hội lý lẽ này thì thấu hiểu vì
sao “đạo pháp ở cấp bực nào cũng có thể
tu chứng được”. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
“Đấng Chí Tôn luôn luôn ngự trong tâm
thanh tịnh của chư đệ muội. Phật Tiên Thánh luôn luôn hộ trì, chỉ
cần chư đệ muội công phu tu tập cho thật dũng mãnh sáng suốt, dầu đạo
pháp ở cấp bực nào cũng có thể tu chứng
được.” ([9])
Huệ Khải
([4]) Thổ
cố nạp tân bổn chỉ Đạo Gia dưỡng sanh chi thuật, thổ xuất trọc khí, hấp nhập
thanh khí, dĩ khứ tật bệnh. 吐故納新, 本指道家 養生之術, 吐出濁氣, 吸入清氣, 以去疾病.