Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

GIẢI NGHĨA KINH NHỰT THỜI / 6. ĐẠO TỔ LÃO QUÂN

 


6. KÍNH LẠY ĐỨC ĐẠO TỔ LÃO QUÂN

1. Cúi cầu Đạo Tổ Lão Quân

Thanh hư Đạo Đức cạn phân Đạo mầu

Chúng tôi muôn lạy khấu đầu

Chí thành cảm ứng khẩn cầu chơn kinh

5. Chúng tôi thân phận hậu sinh

Chí tâm mộ Đạo giữ gìn huyền công

Thảy đều một dạ một lòng

Nỗi vì mối Đạo minh mông khôn tường

9. Muôn cầu rộng lượng xin thương

Dạy người chỉ lối mở đường chúng tôi

Ngây thơ mờ tối vô hồi

Mà lòng quyết chí trau giồi bổn căn

13. Cúi xin rưới chút hồng ân

Cúi xin chỉ mối đặng phăn đặng tìm

Thinh thinh trời lặng gió êm

Nguơn thần phước được chơn kim đơn thành

17. Phi đằng thổ nạp trường sanh

Siêu phàm nhập Thánh, Huỳnh Đình hóa thân

Lạy cầu Đạo Tổ Lão Quân

Thanh hư Đạo Đức cạn phân Đạo mầu.

(Cúi đầu không lạy)

XUẤT XỨ

Bài này do Đức Thể Liên Tiên Nữ ban cho, ngày 04-7 Canh Ngũ (Thứ Tư 27-8-1930), có ở trang 19 cuốn KNT 1932a. Theo trang 16, đàn ban kinh này do Đức Quan Thánh Đế Quân vâng lịnh Đức Chí Tôn chứng đàn. Ngài xưng danh qua bài ngũ ngôn tứ tuyệt quán thủ là “Quan Vân Trường chứng” và dạy: Ta vưng lịnh Đức Chí Tôn chứng đàn cho Thể Liên Tiên Nữ giáng bút dạy Kinh Nhựt Thời làm lễ Đức Chí Tôn, Đức Thánh Mẫu ([1]) và chư Đại Nhơn Tam Giáo. ([2])

GIẢI NGHĨA

Câu 1-2: Cúi cầu Đạo Tổ Lão Quân / Thanh hư Đạo Đức cạn phân Đạo mầu.

cúi: Bản gốc KNT 1932a in là “lạy”, nhưng KNT 2016, NĐCT 2022 đều in là cúi, có lẽ vì Hội Thánh quy định ở cuối bài kinh là “Cúi đầu không lạy”. Tuy nhiên, câu 19 ở hai bản KNT 2016, NĐCT 2022 vẫn giữ nguyên chữ “lạy”. Bài kinh này được viết theo thể “lục bát thủ vĩ”, bốn câu 1-2 và 19-20 giống nhau; do đó, nên sửa lại câu 1 là “lạy” theo đúng với bản gốc KNT 1932a và giống với câu 19.

cầu: Cầu nguyện 求願; van vái.

Đạo Tổ 道祖: Nói đủ là Thái Thượng Đạo Tổ 太上道祖, cũng là Đức Lão Tử 老子. Ngài là Tổ Sư 祖師 (ông Tổ) của Đạo Giáo (đạo Lão, đạo Tiên).

Lão Quân 老君: Nói đủ là Thái Thượng Lão Quân 太上 老君, cũng là Đức Lão Tử.

thanh : Trong trẻo. : Hư vô; trống rỗng. thanh hư: Nói đủ là thanh tịnh hư vô 清淨虛無 (cõi hư vô thanh tịnh) hay thanh khiết hư không 清潔虛空 (cõi hư không thanh khiết).

Đạo Đức: Tức là Đạo Đức Kinh 道德經, do Đức Lão Tử truyền dạy. Kinh này có tám mươi mốt chương, khoảng năm ngàn chữ Nho, chia làm hai phần là Thượng Kinh (quyển đầu, các chương 1-37) và Hạ Kinh (quyển cuối, các chương 38-81). Nhan đề là Đạo Đức Kinh vì chương 1 bắt đầu bằng chữ Đạo , và chương 38 bắt đầu bằng hai chữ thượng đức 上德.

cạn phân: Bày tỏ hết lời hết ý.

Đạo mầu: Đạo cao sâu, huyền diệu.

u Câu 1-2 ý nói: Chúng đệ tử lạy và cầu nguyện Đức Lão Quân là Tổ Sư của đạo Lão. Đạo Đức Kinh của Ngài tỏ bày cặn kẽ về Đạo cao sâu, huyền diệu, thanh tịnh, hư vô.

Câu 3-4: Chúng tôi muôn lạy khấu đầu / Chí thành cảm ứng khẩn cầu chơn kinh.

muôn lạy: Lạy vô số lần. Ngụ ý là vô cùng thiết tha, rất mực thành khẩn; cùng nghĩa với “trăm lạy, ngàn lạy”.

khấu đầu 叩頭: Khấu thủ 叩首; khể thủ 稽首; cúi mình quỳ lạy, đầu áp sát xuống đất.

chí thành 至誠: Rất chơn thành 真誠; rất thành khẩn 誠 懇.

cảm ứng 感應: Người lấy lòng chí thành cảm động tới Thần Thánh thì Thần Thánh đáp ứng lại lòng người.

khẩn cầu : Hết lòng cầu xin; thành khẩn cầu xin.

chơn kinh: Chân kinh 真經; kinh chơn thiệt, chỉ cách tu hành đúng để đắc Đạo.

u Câu 3-4 ý nói: Chúng đệ tử hết lòng thành khẩn, thiết tha quỳ lạy, cầu xin Đức Lão Tử cảm ứng ban cho chơn kinh để tu hành đắc Đạo. (Ở đây có lẽ là chơn kinh vô tự dạy tu thiền, vì Ngài đã ban trao Đạo Đức Kinh rồi.)

Câu 5-6: Chúng tôi thân phận hậu sinh / Chí tâm mộ Đạo giữ gìn huyền công.

thân phận 身分(): Địa vị và hoàn cảnh của một người trong xã hội; còn nói tắt là “phận”. Thí dụ: thân phn bọt bèo “Thương thay thân phn con rùa / Trong đình hạc cỡi, sau chùa đội bia!” (Ca dao) “Đau đớn thay phn đàn bà! / Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?” (Nguyễn Du)

hậu sinh 後生: Kẻ sinh sau.

chí tâm 至心: Hết lòng.

mộ Đạo : Ham thích tu hành.

huyền công 玄功: Công phu 功夫 tu tịnh (ngồi thiền).

u Câu 5-6 ý nói: Chúng đệ tử là kẻ sinh sau, hết lòng ham thích tu hành, giữ gìn pháp môn tịnh luyện.

Câu 7-8: Thảy đều một dạ một lòng / Nỗi vì mối Đạo minh mông khôn tường.

thảy: Tất cả. (Thường nói: cả thảy; hết thảy.)

một dạ một lòng: 1/ Một mực trung thành, không thay đổi lòng dạ. 2/ Tận tụy, đem hết tâm lực để cống hiến.

nỗi vì: Hiềm vì; khổ nỗi; khốn nỗi; ngặt nỗi; ngặt vì.

minh mông: Mênh mông; vô biên 無邊; vô cùng rộng lớn; không giới hạn.

tường : Biết rõ; tỏ tường. khôn tường: Không thể biết rõ.

u Câu 7-8 ý nói: Tất cả chúng đệ tử một lòng chung thủy, dốc chí tu hành nhưng hiềm vì Đạo vô cùng sâu rộng nên không thể hiểu biết rõ ràng.

Câu 9-10: Muôn cầu rộng lượng xin thương / Dạy người chỉ lối mở đường chúng tôi.

muôn cầu: Cầu xin vô số lần. Ngụ ý là vô cùng thiết tha, rất mực thành khẩn.

rộng lượng: Đại lượng 大量; có lòng bao dung, tha thứ, thương người.

dạy người: Sai người tới (để giúp).

u Câu 9-10 ý nói: Chúng đệ tử tha thiết cầu xin Ngài bao dung, thương xót, sai người tới soi đường dẫn lối cho chúng đệ tử tu hành.

Câu 11-12: Ngây thơ mờ tối vô hồi / Mà lòng quyết chí trau dồi bổn căn.

ngây thơ: Khờ dại, thiếu kinh nghiệm, dễ bị lừa gạt.

mờ tối: Vô minh 無明; không sáng suốt, ngu dốt.

vô hồi 無回: Vô số lần; rất nhiều lần.

quyết chí 決志: Nhứt định 一定; không đổi ý thay lòng.

trau giồi (dồi): Bồi bổ, bồi dưỡng, rèn luyện cho đầy đủ, cho tốt đẹp thêm, cho giỏi hơn.

bổn căn: Bản căn 本根. Cái vốn liếng thiêng liêng Trời ban cho mỗi người; biết bồi bổ nó bằng cách tu hành chơn chánh thì có thể trở thành Hiền Thánh, Tiên Phật. Theo Cao Đài, Trời là Đại Linh Quang 大靈光; người là tiểu linh quang 小靈光; vậy, vốn liếng thiêng liêng đó là linh quang 靈光 (ánh sáng thiêng liêng).

u Câu 11-12 ý nói: Chúng đệ tử ngây thơ, biết bao lần u tối (nên cứ lầm lạc); tuy nhiên, chúng đệ tử vẫn quyết chí trau dồi bổn căn thiêng liêng Trời đã ban cho.

Câu 13-14: Cúi xin rưới chút hồng ân / Cúi xin chỉ mối đặng phăn đặng tìm.

rưới: 1/ Tưới đều từng chút cho thấm vào và rê đi cùng khắp. 2/ Ban bố đều khắp mọi nơi. Thí dụ: Rưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu. (Nguyễn Du) Ơn phước Trời Phật ban xuống thấm nhuần muôn loài được ví như mưa móc (mưa và sương, tức võ lộ 雨露); do đó, thường nói là “rưới; chan rưới”.

chút: Chút ít; chút xíu. (Cách nói khiêm tốn khi cầu xin.)

hồng ân 洪恩: Ơn huệ to tát.

chỉ mối: Chỉ dẫn cho thấy đầu mối (để khỏi lầm lạc).

đặng phăn: Để lần mò từng chút, lần theo dấu vết mà tìm cho ra. Thí dụ: “Đôi ta như chỉ trong vòng / Phăn chưa ra mối trong lòng còn e. (Ca dao)

đặng tìm: Để tìm thấy.

u Câu 13-14 ý nói: Chúng đệ tử cúi lạy, cầu xin Ngài ban hồng ân, chỉ nẻo soi đường cho chúng đệ tử lần dò theo đó mà tìm thấy pháp môn để tu luyện.

Câu 15-16: Thinh thinh trời lặng gió êm / Nguơn thần phước được chơn kim đơn thành.

thinh thinh: Thênh thênh; mênh mông; bao la bát ngát.

trời lặng gió êm: Ám chỉ tâm thanh tịnh, phẳng lặng, không bị lục dục thất tình dấy động, nổi sóng nổi gió.

nguơn thần 元神: Đây là yếu tố (nhân tố) quan trọng trên hành trình tu luyện. (Xem giải nghĩa ở hai câu 3-4 trong bài “Kính Lạy Đức Diêu Trì Kim Mẫu”.)

phước được: Có phước nên mới được (điều gì cực kỳ quý hiếm).

chơn kim 真金: Nghĩa đen là “vàng thiệt”. Tục ngữ nói: “Vàng thiệt không sợ lửa.” (Chơn kim bất phạ hỏa. 眞金不 怕火.) Do đó, “nguơn thần” được đạo sĩ tu thiền (hành giả tịnh luyện) gọi “chơn kim” bởi lẽ: Nguơn thần ngàn đời chẳng hư hoại, càng tu luyện càng sáng tỏ.([3])

đơn (đan) : Cơ thể con người có sẵn âm dương . Bằng cách tu thiền (tịnh luyện) hòa hợp được âm và dương thì sản sanh ra “đơn”. Thế nên đạo sĩ gọi tịnh luyện là “luyện đơn” 煉丹. “Đơn” cũng là thuốc tễ, do đó đạo sĩ còn gọi tu tịnh (thiền) là “luyện đơn nấu thuốc”. “Đơn” còn được gọi là “kim đơn” 金丹“kim” là vàng, một thứ quý báu, bền bỉ (bất hoại 不壞).

đơn thành 丹成: Thành công của người tu thiền (hành giả tịnh luyện) tạo được “đơn” hay “kim đơn” 金丹. Muốn thành Tiên, trường sanh bất tử (không còn luân hồi), thì phải luyện thành kim đơn, tức là “đơn thành”.

u Câu 15-16 ý nói: Tâm người rất bao la, lớn rộng. Khi tâm thanh tịnh, hành giả tịnh luyện sẽ thành công vì luyện được kim đơn không hư hoại.

Câu 17-18: Phi đằng thổ nạp trường sanh / Siêu phàm nhập Thánh, Huỳnh Đình hóa thân.

phi đằng 飛騰: Bay vút lên. (Ý nói người tu đắc Đạo thì khi bỏ xác phàm, linh hồn siêu thăng thượng giới.)

thổ : Nhả ra; thở ra. nạp : Hít vào. thổ nạp: Nói đầy đủ là thổ cố nạp tân 吐故納新 (nhả ra hơi cũ, hít vào hơi mới), tức là thở ra để tống đi hết các khí bẩn (trọc khí 濁氣) rồi chầm chậm hít vào khí sạch (thanh khí 清氣) để trừ khử tật bệnh. Các đạo sĩ thực hành thổ nạp để kéo dài tuổi thọ (trường sanh 長生); thế nên thổ nạp là phương pháp dưỡng sanh 養生 của đạo Lão.([4])

trường sanh 長生: Sống lâu. Tu theo đạo Lão là để thành Tiên , được trường sanh bất tử 長生不死 (khi bỏ xác phàm thì linh hồn trở về cõi Tiên, khỏi phải luân hồi).

siêu phàm nhập Thánh 超凡入聖: Vượt lên khỏi cõi phàm tục mà đi vào cõi Thánh (tức là đắc Đạo 得道).

Huỳnh Đình 黃庭: “Huỳnh (hoàng)” là màu vàng tượng trưng cho trung tâm.([5]) “Đình” là trung tâm của bốn phương.([6]) Do đó, “Huỳnh Đình” ám chỉ trung tâm của cơ thể, là nơi kết tụ kim đơn.

hóa thân 化身: Biến hóa ra thân khác, tức là từ phàm tục trở thành Tiên Thánh. Hiểu theo thiền pháp Cao Đài là tạo được nhị xác thân (xác thân thứ hai, vô hình).

u Câu 17-18 ý nói: Bằng cách tịnh luyện, kết thành kim đơn ở Huỳnh Đình thì người tu thoát khỏi cõi phàm, linh hồn trở về cõi Thánh (cõi Tiên) sau khi bỏ xác.

Câu 19-20: Lạy cầu Đạo Tổ Lão Quân / Thanh hư Đạo Đức cạn phân Đạo mầu.

Trong bài thơ “lục bát thủ vĩ”, hai câu kết này lặp lại hai câu mở đầu (đã giải thích ở trên).

TỔNG LUẬN

1. Hai câu 15-16 (Thinh thinh trời lặng gió êm / Nguơn thần phước được chơn kim đơn thành) nói lên chỗ cốt lõi của tu thiền (tịnh luyện; công phu) là giữ tâm thanh tịnh.

Hành giả tu tịnh lâu năm có thể ngồi thiền suốt một giờ, nhưng thử hỏi: Trong sáu mươi phút ấy có bao nhiêu giây phút mà tâm và ý thực sự được thanh tịnh? Bao nhiêu giây phút mà tâm và ý cứ như khỉ vượn nhảy nhót leo chuyền? hoặc cứ như con ngựa thả rong mặc tình tung vó? Cái tâm, cái ý lăng xăng, không chịu ở yên như thế được các hành giả tu thiền gọi là “tâm vượn, ý ngựa” (tâm viên, ý mã 心猿 意馬).

Ai đã tập tọa thiền rồi thì rất thấm thía chỗ này: Bề ngoài, nhìn tướng ngồi nghiêm trang, bất động chẳng khác chi pho tượng, nhưng trong tâm thì vô vàn ý nghĩ tới lui. Ngồi yên một chỗ mà tâm ý cứ rong chơi khắp ta bà thế giới; muôn điều vạn sự quá khứ và tương lai cứ nối tiếp nhau dồn dập diễn ra trong tâm ý, và tâm ý như đang nổi dông nổi gió, như sóng biển cuộn trào lớp lớp.

Bởi vậy, kết quả tu thiền chẳng tùy thuộc vào thời gian thực hành là bao nhiêu ngày, bao nhiêu năm tháng mà cốt yếu chỉ ở tâm thanh tịnh. Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:

Một giờ thanh tịnh một giờ linh

Nên Đạo hay không cũng bởi mình.

Chẳng phải mấy ngày, năm tháng cũng ... ([7])

2. Bốn chữ “trời lặng gió êm” trong câu 15 gợi nhớ tới lời Đức Chí Tôn dạy con cái phải giữ tâm thanh tịnh:

Biển êm lặng minh châu mới hiện

Tâm con thường như biển gió dông

Muốn yên con phải lóng lòng ... ([8])

3. Bí quyết thành tựu của công phu tu luyện là tâm thanh tịnh. Mọi cấp bực pháp môn (dù thấp hay cao) chung quy đều là phương tiện. Lãnh hội lý lẽ này thì thấu hiểu vì sao “đạo pháp ở cấp bực nào cũng có thể tu chứng được”. Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:

“Đấng Chí Tôn luôn luôn ngự trong tâm thanh tnh của chư đệ muội. Phật Tiên Thánh luôn luôn hộ trì, chỉ cần chư đệ muội công phu tu tập cho thật dũng mãnh sáng suốt, dầu đo pp ở cấp bc nào cũng có thể tu chứng đưc.([9])

Huệ Khải



([1]) Tức là Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn.

([2]) Tức là Tam Giáo Tổ Sư (Thích Ca, Lão Tử, và Khổng Tử).

([3]) Nguơn thần lịch kiếp bất hoại, dũ luyện dũ minh. 元神歷刧不壞, 愈煉愈明.

([4]) Thổ cố nạp tân bổn chỉ Đạo Gia dưỡng sanh chi thuật, thổ xuất trọc khí, hấp nhập thanh khí, dĩ khứ tật bệnh. 吐故納新, 本指道家 養生之術, 吐出濁氣, 吸入清氣, 以去疾病.

([5]) Huỳnh giả, trung ương chi sắc dã. 黄者, 中央之色也.

([6]) Đình giả, tứ phương chi trung dã. 庭者, 四方之中也.

([7]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 07-11 Bính Thìn (Thứ Hai 27-12-1976).

([8]) Tòa Thánh Châu Minh, Thánh Huấn Hiệp Tuyển. Quyển I (1961), tr. 154, bài “Định Thần Nhập Tịnh”.

([9]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 29-8 Quý Hợi (Thứ Tư 05-10-1983).