9. KÍNH XƯNG TỤNG BẢO ĐỨC KIM TIÊN
1. Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên
Chơn Nhơn Chưởng Quản hồi
nguyên Tiên Tòa
Xuống trần độ thế Kỳ Ba
Cầu Trên rưới nước ma ha khắp
cùng
5. Độ đời thoát khỏi lao lung
Đường Tiên nẻo Thánh thung
dung trở quày
Rước đưa đến bến Cao Đài
Bạch Y Chơn Lý dồi mài bổn căn
9. Mong nhờ lượng cả giáng
thăng
Nguyện cầu ân điển soi lằn tối
tăm
Thay Thầy dìu dắt nguyên nhân
Chịu nhiều lao khổ nhọc nhằn
sá chi
13. Hôm nay Thánh Đản đến kỳ
Đèn hồng hương kỉnh cũng vì
buổi xưa
Ơn Trên nhuần gội sớm trưa
Thánh Tòa cung phụng rước đưa
sĩ tài
17. Nguyện cầu ân đức hoằng
khai
Cửu Trùng, Thiên Hiệp hòa hai
ý nguyền
Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên
Chơn Nhơn Chưởng Quản hồi
nguyên Tiên Tòa.
(Cúi đầu không lạy)
GIẢI NGHĨA
Nhan đề:
xưng tụng 稱頌: Xưng
tán 稱贊; ca
tụng; khen ngợi.
Bảo Đức Kim Tiên 保德金仙: Phẩm
vị tiền bối Tô Bửu Tài (1886-1970); Thánh danh Kiến Đức 建德; Thiên phong Ngọc Đầu Sư (Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý).
Bảo Đức 保德: Giữ gìn, bảo
toàn sự nghiệp đạo đức của bản thân, của đồng đạo và Hội Thánh.
Kim Tiên 金仙: Tiên Học Từ Điển của Đới Nguyên
Trường giảng như sau: Kim Tiên là địa vị
tối cao. Lúc trời đất hủy diệt, mọi vật có hình có chất đều biến thành số
không, (...), chỉ riêng Kim Tiên là
vượt ngoài trời đất, không bị ảnh hưởng mà nhiều kiếp không hại, lại còn có thể
tái tạo trời đất, lập thế giới riêng...([1])
Câu 1-2: Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên / Chơn
Nhơn Chưởng Quản hồi nguyên Tiên Tòa.
Chơn Nhơn: Chân Nhân 真人; bậc tu hành đắc Đạo, không còn sanh diệt (sống chết), đầy đủ thần thông. Đỗng Nguyên Tự Nhiên Kinh Quyết có câu: “Bậc Chơn Nhơn thì thân
thể thông suốt hư vô, cùng với Đạo hợp chân, làm một với tự nhiên, không có gì
mà không làm được, không có gì mà không biết, không có gì mà không thông suốt.”
([2]) Trong bài kinh xưng tụng này, “Chơn Nhơn” là Bảo Đức
Kim Tiên.
Chưởng Quản 掌管: Quản lý 管理; coi sóc,
trông nom. (Tiền bối Ngọc Đầu Sư Tô Bửu Tài được Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn
Chơn Lý đồng thuận cử làm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh.)
hồi nguyên 回源: Trở về nguồn cội
(là Đạo; Thượng Đế). Theo câu 7, “nguyên”
là “bến Cao Đài”.
Tiên Tòa 仙座: Ngôi Tiên; chỗ ngồi của vị Tiên. – hồi nguyên Tiên Tòa: Trở về cõi Trời và chứng quả Tiên.
u Câu 1-2 ý nói: Kính mừng Đức Bảo Đức Kim Tiên, vị
Chơn Nhơn chưởng quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh đã trở về cõi Trời và chứng quả Tiên.
Câu 3-4: Xuống trần độ thế Kỳ Ba / Cầu Trên rưới nước ma ha
khắp cùng.
xuống trần: Giáng trần 降塵. Tô tiền bối là một nguyên nhơn
原人 có sứ mạng xuống cõi trần gian.
độ thế 渡世: Cứu độ người
đời; cứu vớt thế gian.
Cầu Trên: Cầu xin Ơn Trên (là Bảo Đức Kim Tiên).
rưới: 1/ Tưới đều
từng chút cho thấm vào và rê đi cùng khắp. – 2/ Ban bố đều khắp mọi nơi. Thí dụ: “Rưới
ra đã khắp, thấm vào đã sâu.”
(Nguyễn Du) – Ơn phước Trời Phật ban xuống thấm
nhuần muôn loài được ví như mưa móc (mưa và sương, tức võ lộ 雨露); do đó, thường nói là “rưới; chan rưới”.
nước ma ha: Ma ha thủy 摩訶水; nước Thánh. Thí dụ: “Cứ noi bóng Chí Linh soi bước / Gội mê đồ
tắm nước ma ha.” (Kinh Giải Oan) – “Cúi nhờ nước ma ha mát mẻ /
Xin Phật ban cho kẻ khát lòng.” (Đức Huỳnh Giáo Chủ)
khắp cùng: Cùng khắp;
đủ hết mọi chỗ mọi nơi.
u Câu 3-4 ý nói: Tô tiền bối là một nguyên nhơn
giáng trần để cứu độ thế nhân trong Kỳ Ba này. Cầu xin Bảo Đức Kim Tiên chan
rưới nước Thánh xuống khắp mọi nơi cho muôn loài được hạnh hưởng.
Câu 5-6: Độ đời thoát khỏi lao lung / Đường
Tiên nẻo Thánh thung dung trở quày.
độ đời: Độ thế 渡世; cứu độ người đời; cứu vớt thế gian.
lao lung 牢籠: Cái
chuồng (lao) để nhốt gia súc (trâu,
bò, heo...) và cái lồng (lung) để nhốt gia cầm (gà, vịt...); nghĩa bóng là ngục tù; là sự khổ cực của
kiếp người trong cảnh bó buộc về vật chất lẫn tinh thần.
đường Tiên nẻo Thánh: Tiên Đạo 仙道 và Thánh Đạo 聖道; con đường tu tập để người phàm tục tiến hóa, thành Thánh, thành Tiên.
thung dung 從容: Thong dong; thảnh thơi, thong thả.
trở quày: Trở gót quày chân.
Ghi chú: Câu 6 đảo ngữ. Khi nói xuôi, nghĩa là: Trở gót quày chân, thung dung bước theo đường Tiên nẻo Thánh.
u Câu 5-6 ý
nói: 1/ Sau khi Tô tiền bối làm tròn sứ mạng độ đời nơi thế gian thì được
thong dong trở về cõi Tiên. – 2/ Bảo Đức
Kim Tiên cứu độ nhơn sanh
thoát khỏi chốn thế gian bó buộc bằng cách dẫn dắt nhơn sanh dò theo con đường
tu hành của các bậc Tiên Thánh để được thong dong trở về nguồn cội thiêng
liêng.
Câu 7-8: Rước đưa đến bến Cao Đài / Bạch Y Chơn Lý dồi mài bổn
căn.
rước đưa: Đón rước; đón đưa một cách trân trọng.
bến Cao Đài: Bến Cao Đài
là nơi tiếp rước nhơn sanh lên thuyền bát nhã, vượt qua biển khổ trần ai sang
bến bờ giải thoát.
Đức Giáo Tông Đại
Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy:
Khi dấn thân cầm giềng
mối Đạo
Tức là đang gỡ tháo
tiền khiên
Tức là tạo bát nhã thuyền
Rước đưa khách tục vượt miền vô minh.([3])
dồi mài: Dùi mài; bỏ nhiều thời
gian và công sức để siêng năng học hành, rèn luyện, hoặc tu tập.
bổn căn: Bản căn 本根; bổn thể 本體; cái vốn liếng
thiêng liêng sẵn có (tự hữu 自有) ở mỗi người. Đạo Cao Đài gọi vốn liếng này là
ánh sáng thiêng liêng (linh quang 靈光); nó đồng nhứt giữa Trời và người (cũng như chúng sanh), vì Trời là Đại Linh Quang 大靈光; mỗi chúng sanh (trong đó có con người) là tiểu linh quang 小靈光. Đại Thừa Chơn Giáo minh họa con
đường tiến hóa của mỗi điểm linh quang từ khoáng sản, thảo mộc lên tới thú cầm,
cho tới con người (mức tiến hóa cao nhứt).
u Câu 7-8 ý nói: Bảo Đức Kim
Tiên đón rước nhơn sanh đến với Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý để tu học và
hành đạo, chẳng khác nào tiếp rước nhơn sanh lên thuyền bát nhã vượt qua biển
khổ để tới bến bờ giải thoát.
Câu 9-10: Mong nhờ lượng cả giáng thăng / Nguyện cầu ân điển
soi lằn tối tăm.
lượng cả: Đại lượng 大量; lòng bao dung
rộng rãi, dễ tha thứ, không hẹp hòi, không chấp nhứt, không nhỏ nhen.
giáng thăng 降升: Xuống và lên;
ý nói thường hay giáng cơ ban ơn và dạy bảo.
ân điển 恩典: Ơn huệ do Trời Phật, Tiên Thánh, Bồ Tát
ban bố.
soi lằn: Làn (lằn) ánh sáng soi rọi, soi chiếu.
tối tăm: Nghĩa bóng là vô minh 無明; không hiểu
biết, ngu dốt. Do vô minh mà phạm lỗi, tạo nghiệp xấu.
u Câu 9-10 ý nói: Nguyện cầu
Bảo Đức Kim Tiên thường hay giáng trần để ban bố ân điển, soi sáng chúng sanh
thoát khỏi vô minh.
Câu 11-12: Thay Thầy dìu dắt nguyên nhân / Chịu nhiều lao khổ
nhọc nhằn sá chi.
thay Thầy: Thay mặt Thầy (Cha Trời) để dìu dẫn đàn em mình (là tín đồ 信徒) trên đường tu học chính là bổn
phận cao cả của đàn anh, đàn chị (là chức
sắc 職色).
dìu dắt: Chỉ dẫn, dạy bảo, chăm nom, săn sóc.
nguyên nhân (nhơn): 原人: Là linh căn 靈根 có nguồn gốc từ cõi Trời, nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời;
khác với hóa nhân (nhơn) 化人 là người vốn từ cầm thú tiến hóa lên.
Theo Ngọc Lộ Kim Bàn 玉露金盤, sau hai
kỳ phổ độ thì còn sót lại chín mươi hai ức nguyên nhân (cửu thập nhị ức nguyên nhân 九十二億原人) cần được đưa hết về thượng giới
trong Kỳ Ba (hạ nguơn).
lao khổ 勞苦: Cực nhọc; vất
vả.
sá chi: Sá gì; kể chi; chẳng đáng bận lòng. Thí dụ: “Sá chi một mảnh thiền quyên 嬋娟 [gái đẹp] buộc mình.” (Sáu
Trọng) – “Sá chi một mảnh tình hồng.” (Bạch Tiểu Phụng)
u Câu 11-12 ý nói: Bảo
Đức Kim Tiên thay mặt Đức Chí Tôn dìu dắt nguyên nhơn trên bước đường tu hành,
chẳng quản ngại biết bao lao khổ nhọc nhằn.
Câu 13-14: Hôm nay Thánh Đản đến kỳ / Đèn hồng hương kỉnh cũng vì buổi xưa.
Thánh Đản 聖誕: Ngày sanh của một Đấng thiêng liêng
(Thần, Thánh, Tiên); riêng với Đức Phật thì gọi là Phật Đản 佛誕. Người Hoa gọi ngày Phật Đản là Phật
Đản Tiết 佛 誕節; gọi ngày Chúa
Giáng Sinh (Noël) là Thánh Đản Tiết 聖誕節.
đến kỳ: Tới ngày đã định (định kỳ 定期; kỳ hạn 期限).
đèn hồng: Đèn (nến) thắp sáng (đỏ
đèn). Ghi chú: Đỏ đèn là thắp
đèn. Thí dụ: “Láng giềng đã đỏ đèn
đâu.” (Nguyễn Bính)
hương kỉnh: Nhang đốt và kính cẩn dâng
lên.
cũng vì buổi xưa: Cũng vì nhớ công đức Tô tiền bối hành đạo độ đời ngày trước.
u Câu 13-14 ý nói: Hôm nay kỷ niệm ngày Bảo Đức Kim Tiên giáng sanh, đạo hữu
thắp đèn dưng hương kính bái, tưởng niệm công đức của Ngài thuở xưa.
Câu 15-16: Ơn Trên nhuần gội sớm trưa / Thánh Tòa cung phụng
rước đưa sĩ tài.
nhuần gội: 1/ Chịu ơn rất hậu. – 2/
(Nghĩa trong bài) ban ơn rất hậu.
sớm trưa: Buổi sáng và buổi trưa. Nghĩa bóng là suốt ngày; trọn ngày; cả ngày.
Thánh Tòa 聖座: Tòa Thánh. (Ở đây là Tòa Thánh Ngọc
Kinh, chữ Nho là Ngọc Kinh Thánh Tòa 玉京聖座.)
cung phụng 供奉: Tiếp đãi trọng hậu.
sĩ tài 士才: Người
có học vấn, phẩm hạnh, và tài năng.
u Câu 15-16 ý nói: Tòa Thánh luôn tiếp nhận được ân điển thiêng liêng; đây là nơi tiếp
đón các hiền sĩ tài đức để cùng nhau phụng sự Đạo Thầy, cứu độ nhơn sanh.
Câu 17-18: Nguyện cầu ân đức hoằng khai / Cửu Trùng, Thiên Hiệp
hòa hai ý nguyền.
ân đức 恩德: Ơn huệ và đức
độ.
hoằng khai 弘開: Phát triển
(mở mang) rộng lớn.
Cửu Trùng, Thiên Hiệp: Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Ghi chú: Chữ thứ tư câu bát
phải là thanh trắc; do đó, đảo ngữ “Hiệp
Thiên” thành “Thiên Hiệp”.
hòa hai: 1/ Cả hai đều hòa thuận,
hòa hiệp, hòa ái với nhau. – 2/ Cả
hai đều tương xứng về các mặt (phẩm vị, tài đức, tâm hạnh).
ý nguyền: Ý nguyện 意願; lòng mong mỏi,
ước muốn.
u Câu 17-18 ý nói: Xin nguyện cầu Bảo Đức Kim Tiên rộng ban ơn đức, phù trợ Cửu Trùng Đài
và Hiệp Thiên Đài cùng hòa hài với nhau trong ý nguyện độ đời.
Câu 19-20: Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên / Chơn Nhơn Chưởng Quản
hồi nguyên Tiên Tòa.
Trong bài thơ “lục bát thủ vĩ”, hai câu kết này lặp lại hai câu mở đầu
(đã giải thích ở trên).
TỔNG LUẬN
1. Ngày 15- 8 Nhâm Dần (Thứ Năm 13-9-1962), tiền bối Tô Bửu Tài được Đức Chí Tôn ân phong phẩm Ngọc Đầu Sư, và ban Thánh danh là Kiến Đức 建德 (kiến tạo 建造, gầy dựng đức độ cho bản thân). Trong suốt tám
năm (1962-1970) làm tròn trọng trách Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh Bạch Y Liên
Đoàn Chơn Lý, Tô tiền
bối chẳng những đã kiến tạo thành công nền tảng đức độ bản thân mà còn bảo vệ, giữ
gìn sự nghiệp đạo đức của Hội Thánh, của đồng đạo. Bởi thế, khi đắc Đạo, quả vị
của Ngài là “Bảo Đức Kim Tiên”.
Sau đây, chúng ta thử suy gẫm nghĩa lý một số lời kinh với ý hướng đem
lời kinh áp dụng cho bản thân mình.
2. Câu 6 (Đường Tiên nẻo Thánh
thung dung trở quày) gợi nhiều suy nghĩ sâu xa.
Khi nói “trở quày” tức là có
sự chuyển hướng (trở gót
quày chân), không tiếp tục bước tới nữa. Vì sao thế?
Cứ tiếp tục đi tới nghĩa là xuôi thuận theo dòng đời, mải mê đua chen
theo cuộc sống vật chất. Nhưng trở gót quày chân nghĩa là quay lại, đi ngược
dòng đời để học đạo, tu hành. Nói cách khác, muốn bước lên “đường Tiên nẻo Thánh” để sau
này từ biệt trần gian sẽ được hưởng cảnh “thung
dung” (thong thả, thanh nhàn) thì bây giờ hãy làm trái ngược với những gì
người đời (chưa tu) vẫn làm. Thí dụ: Người đời ham làm giàu, say mê tích trữ
của cải, thì người tu biết sống vừa đủ. Người đời thích hưởng thụ cao lương mỹ
vị, rượu ngon thịt béo, thì người tu vui lòng ăn chay đạm bạc với rau đậu, tương
chao, v.v...
Sự chuyển hướng để đi ngược dòng đời (nghịch hành 逆行) như vừa nói trên còn được kinh
sách gọi là “hồi đầu” 回頭 (quay đầu lại). Dĩ nhiên ngược dòng bao giờ
cũng khó hơn xuôi dòng; thế nên, tu hành không hề là chuyện dễ dàng, một sớm
một chiều.
3. Câu 7 (Rước đưa đến bến
Cao Đài) ngụ ý
nhắn nhủ chúng ta nên biết trân trọng đón rước nhơn sanh, niềm nở tiếp đón họ
vào Đạo, sốt sắng tạo duyên lành giúp họ tu hành mà tìm về với Đức Cao Đài. Như
thế, chẳng những cửa Đạo hãy rộng mở mà chúng ta lại còn hoan hỷ dang tay trân
trọng tiếp rước nhơn sanh bước vào cửa Cao Đài.
4. Rời khỏi bến khởi nguyên (cõi Trời) ra đi, bước vào thế gian, mỗi người
trong chúng ta (vốn là nguyên nhơn 原 人) đâu khác chi nhà buôn đem vốn
liếng ra kinh doanh. Vốn liếng đó chính là “bổn
căn” (linh quang) Trời ban sẵn. Làm ăn thất bát, lỗ vốn, hết vốn thì làm
sao ta trở về bến cũ (cõi Trời)? Đây là nỗi khổ của chín mươi hai ức nguyên
nhơn sau hai kỳ phổ độ (theo Ngọc Lộ Kim
Bàn).
Thế nên, chúng ta phải tìm cách cho vốn liếng sanh lời, càng nhiều lời càng
tốt; nghĩa là làm sao cho linh quang đừng lu mờ mà càng lúc càng sáng rỡ thêm hơn.
Chọn được chỗ tốt, nhà buôn giỏi mới bỏ vốn làm ăn (đầu tư sanh lợi). Tu
hành cũng vậy; chúng ta cần có một tập thể Cao Đài để nương náu tu hành. Tùy
duyên, tùy Ơn Trên an bài mà mỗi môn sanh Cao Đài đều có một Nhà Thánh phù hợp
dành cho mình. Riêng với Tô tiền bối (Ngọc Đầu Sư Kiến Đức), chỗ tốt cho Ngài
“đầu tư vốn liếng” chính là Hội Thánh Bạch Y, như câu 8 bài kinh nói: “Bạch Y Chơn Lý
dồi mài bổn căn.”
5. Ngoài mục đích cầu xin Bảo Đức Kim Tiên mở “lượng cả” (lòng bao dung, tha thứ) cho chúng ta, câu 9 (Mong nhờ lượng cả
giáng thăng) còn ngụ ý nhắc chúng ta hãy biết
mở lòng hỷ xả đối với người khác.
Theo Phúc Âm, một hôm tông đồ
Phê-rô bước tới gần Đức Giê-su và hỏi: “Thưa
Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm con, thì con phải tha thứ họ mấy lần? Có phải
bảy lần không ạ?” Đức Giê-su đáp: “Thầy
không bảo bảy lần, mà là bảy mươi lần bảy.” (Gio-an, chương 18, câu
21-22)
6. Sứ mạng Cao Đài trong Kỳ Ba quá lớn vì nhắm
tới phạm vi toàn cầu; bởi thế, nhân lực xứng đáng (sĩ tài) luôn luôn là một trong các mối ưu tư hàng đầu của các Hội
Thánh, Tòa Thánh nói chung, chớ không riêng của Hội Thánh Bạch Y và Tòa Thánh
Ngọc Kinh. Do đó, câu 16 (Thánh Tòa cung
phụng rước đưa sĩ tài) còn ngụ ý khuyên nhủ, nhắc nhở chúng ta nên có lòng
khiêm tốn, biết chiêu hiền đãi sĩ để có thể quy tụ rất nhiều bậc sĩ tài tìm đến giúp việc cho Tòa Thánh,
Hội Thánh, hợp tác với chúng ta.
Tục ngữ có câu: “Đất lành chim
đậu.” Thế nên, để có thể “rước đưa sĩ
tài” thì chúng ta cần gầy dựng đầy đủ các điều kiện giúp cho nhơn sanh nhìn
thấy rõ và vững tin rằng Tòa Thánh, Hội Thánh chúng ta quả thực là “đất lành” như lời Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh khuyên
dạy:
Thảo mộc tốt rầy sâu quy tụ
Ruộng lúa lành quyến dụ chim trời
Đất lành hoa quả tốt tươi
Chùa linh, Đạo sáng, mọi người tin
theo.([4])
7. Tóm lại, bài “Kính Xưng Tụng Bảo Đức Kim Tiên” không phải
chỉ có mục đích ca tụng công đức, gương sáng tu thân hành đạo của tiền bối Kiến
Đức (Tô Bửu Tài), rồi cầu xin Bảo Đức Kim Tiên ban ơn hộ trì chúng ta tu hành; thật
ra, còn sâu xa hơn thế nữa, khi tụng bài kinh này tức là chúng ta đang tự nhắc
nhở bản thân hãy làm đúng những gì như lời kinh nói về Ngài. Hiểu như vậy thì
việc tụng kinh này mới thật sự làm đẹp lòng Bảo Đức Kim Tiên.
Ghi chú
Xem thêm Phụ Đính ở cuối sách
để biết:
– Hành trạng (tiểu sử) tiền bối
Kiến Đức Tô Bửu Tài.
– Ngọc sắc ban Tiên vị Bảo Đức Kim
Tiên.
– Thánh giáo đầu tiên của Bảo Đức
Kim Tiên.
([1]) Nãi tối cao địa vị, thiên
địa hủy diệt thời, nhứt thiết hữu hình hữu chất, đô hóa vi ô hữu, [...], duy Kim Tiên dĩ siêu xuất thiên địa chi
ngoại, bất thọ ảnh hưởng, nhi lịch kiếp bất hoại, thả năng trùng tạo thiên địa,
lánh lập thế giới... 乃最高地位, 天地毀滅 時, 一切 有形有質, 都化為烏有, [...], 唯金仙已超出天地之外, 不受影響, 而歷刼不壞, 且能重造天地, 另立世界... (戴源長, 仙學辭典)