Thứ Ba, 7 tháng 1, 2025

GIẢI NGHĨA KINH NHỰT THỜI / 9. BẢO ĐỨC KIM TIÊN

 


9. KÍNH XƯNG TỤNG BẢO ĐỨC KIM TIÊN

1. Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên

Chơn Nhơn Chưởng Quản hồi nguyên Tiên Tòa

Xuống trần độ thế Kỳ Ba

Cầu Trên rưới nước ma ha khắp cùng

5. Độ đời thoát khỏi lao lung

Đường Tiên nẻo Thánh thung dung trở quày

Rước đưa đến bến Cao Đài

Bạch Y Chơn Lý dồi mài bổn căn

9. Mong nhờ lượng cả giáng thăng

Nguyện cầu ân điển soi lằn tối tăm

Thay Thầy dìu dắt nguyên nhân

Chịu nhiều lao khổ nhọc nhằn sá chi

13. Hôm nay Thánh Đản đến kỳ

Đèn hồng hương kỉnh cũng vì buổi xưa

Ơn Trên nhuần gội sớm trưa

Thánh Tòa cung phụng rước đưa sĩ tài

17. Nguyện cầu ân đức hoằng khai

Cửu Trùng, Thiên Hiệp hòa hai ý nguyền

Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên

Chơn Nhơn Chưởng Quản hồi nguyên Tiên Tòa.

(Cúi đầu không lạy)

GIẢI NGHĨA

Nhan đề:

xưng tụng 稱頌: Xưng tán 稱贊; ca tụng; khen ngợi.

Bảo Đức Kim Tiên 保德金仙: Phẩm vị tiền bối Tô Bửu Tài (1886-1970); Thánh danh Kiến Đức 建德; Thiên phong Ngọc Đầu Sư (Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý).

Bảo Đức 保德: Giữ gìn, bảo toàn sự nghiệp đạo đức của bản thân, của đồng đạo và Hội Thánh.

Kim Tiên 金仙: Tiên Học Từ Điển của Đới Nguyên Trường giảng như sau: Kim Tiên là địa vị tối cao. Lúc trời đất hủy diệt, mọi vật có hình có chất đều biến thành số không, (...), chỉ riêng Kim Tiên là vượt ngoài trời đất, không bị ảnh hưởng mà nhiều kiếp không hại, lại còn có thể tái tạo trời đất, lập thế giới riêng...([1])

Câu 1-2: Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên / Chơn Nhơn Chưởng Quản hồi nguyên Tiên Tòa.

Chơn Nhơn: Chân Nhân 真人; bậc tu hành đắc Đạo, không còn sanh diệt (sống chết), đầy đủ thần thông. Đỗng Nguyên Tự Nhiên Kinh Quyết có câu: “Bậc Chơn Nhơn thì thân thể thông suốt hư vô, cùng với Đạo hợp chân, làm một với tự nhiên, không có gì mà không làm được, không có gì mà không biết, không có gì mà không thông suốt.” ([2]) Trong bài kinh xưng tụng này, “Chơn Nhơn” là Bảo Đức Kim Tiên.

Chưởng Quản 掌管: Quản lý 管理; coi sóc, trông nom. (Tiền bối Ngọc Đầu Sư Tô Bửu Tài được Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý đồng thuận cử làm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh.)

hồi nguyên 回源: Trở về nguồn cội (là Đạo; Thượng Đế). Theo câu 7, “nguyên” “bến Cao Đài”.

Tiên Tòa : Ngôi Tiên; chỗ ngồi của vị Tiên. hồi nguyên Tiên Tòa: Trở về cõi Trời và chứng quả Tiên.

u Câu 1-2 ý nói: Kính mừng Đức Bảo Đức Kim Tiên, vị Chơn Nhơn chưởng quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh đã trở về cõi Trời và chứng quả Tiên.

Câu 3-4: Xuống trần độ thế Kỳ Ba / Cầu Trên rưới nước ma ha khắp cùng.

xuống trần: Giáng trần 降塵. Tô tiền bối là một nguyên nhơn 原人 có sứ mạng xuống cõi trần gian.

độ thế 渡世: Cứu độ người đời; cứu vớt thế gian.

Cầu Trên: Cầu xin Ơn Trên (là Bảo Đức Kim Tiên).

rưới: 1/ Tưới đều từng chút cho thấm vào và rê đi cùng khắp. 2/ Ban bố đều khắp mọi nơi. Thí dụ: Rưới ra đã khắp, thấm vào đã sâu. (Nguyễn Du) Ơn phước Trời Phật ban xuống thấm nhuần muôn loài được ví như mưa móc (mưa và sương, tức võ lộ 雨露); do đó, thường nói là “rưới; chan rưới”.

nước ma ha: Ma ha thủy 摩訶水; nước Thánh. Thí dụ: “Cứ noi bóng Chí Linh soi bước / Gội mê đồ tắm nước ma ha.” (Kinh Giải Oan) “Cúi nhờ nước ma ha mát mẻ / Xin Phật ban cho kẻ khát lòng.” (Đức Huỳnh Giáo Chủ)

khắp cùng: Cùng khắp; đủ hết mọi chỗ mọi nơi.

u Câu 3-4 ý nói: Tô tiền bối là một nguyên nhơn giáng trần để cứu độ thế nhân trong Kỳ Ba này. Cầu xin Bảo Đức Kim Tiên chan rưới nước Thánh xuống khắp mọi nơi cho muôn loài được hạnh hưởng.

Câu 5-6: Độ đời thoát khỏi lao lung / Đường Tiên nẻo Thánh thung dung trở quày.

độ đời: Độ thế 渡世; cứu độ người đời; cứu vớt thế gian.

lao lung 牢籠: Cái chuồng (lao) để nhốt gia súc (trâu, bò, heo...) và cái lồng (lung) để nhốt gia cầm (gà, vịt...); nghĩa bóng là ngục tù; là sự khổ cực của kiếp người trong cảnh bó buộc về vật chất lẫn tinh thần.

đường Tiên nẻo Thánh: Tiên Đạo 仙道Thánh Đạo 聖道; con đường tu tập để người phàm tục tiến hóa, thành Thánh, thành Tiên.

thung dung 從容: Thong dong; thảnh thơi, thong thả.

trở quày: Trở gót quày chân.

Ghi chú: Câu 6 đảo ngữ. Khi nói xuôi, nghĩa là: Trở gót quày chân, thung dung bước theo đường Tiên nẻo Thánh.

u Câu 5-6 ý nói: 1/ Sau khi Tô tiền bối làm tròn sứ mạng độ đời nơi thế gian thì được thong dong trở về cõi Tiên. 2/ Bảo Đức Kim Tiên cứu độ nhơn sanh thoát khỏi chốn thế gian bó buộc bằng cách dẫn dắt nhơn sanh dò theo con đường tu hành của các bậc Tiên Thánh để được thong dong trở về nguồn cội thiêng liêng.

Câu 7-8: Rước đưa đến bến Cao Đài / Bạch Y Chơn Lý dồi mài bổn căn.

rước đưa: Đón rước; đón đưa một cách trân trọng.

bến Cao Đài: Bến Cao Đài là nơi tiếp rước nhơn sanh lên thuyền bát nhã, vượt qua biển khổ trần ai sang bến bờ giải thoát.

Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy:

Khi dấn thân cầm giềng mối Đạo

Tức là đang gỡ tháo tiền khiên

Tức là tạo bát nhã thuyền

Rước đưa khách tục vượt miền vô minh.([3])

dồi mài: Dùi mài; bỏ nhiều thời gian và công sức để siêng năng học hành, rèn luyện, hoặc tu tập.

bổn căn: Bản căn 本根; bổn thể 本體; cái vốn liếng thiêng liêng sẵn có (tự hữu 自有) ở mỗi người. Đạo Cao Đài gọi vốn liếng này là ánh sáng thiêng liêng (linh quang 靈光); nó đồng nhứt giữa Trời và người (cũng như chúng sanh), vì Trời là Đại Linh Quang 大靈光; mỗi chúng sanh (trong đó có con người) là tiểu linh quang 小靈光. Đại Thừa Chơn Giáo minh họa con đường tiến hóa của mỗi điểm linh quang từ khoáng sản, thảo mộc lên tới thú cầm, cho tới con người (mức tiến hóa cao nhứt).


u Câu 7-8 ý nói: Bảo Đức Kim Tiên đón rước nhơn sanh đến với Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý để tu học và hành đạo, chẳng khác nào tiếp rước nhơn sanh lên thuyền bát nhã vượt qua biển khổ để tới bến bờ giải thoát.

Câu 9-10: Mong nhờ lượng cả giáng thăng / Nguyện cầu ân điển soi lằn tối tăm.

lượng cả: Đại lượng 大量; lòng bao dung rộng rãi, dễ tha thứ, không hẹp hòi, không chấp nhứt, không nhỏ nhen.

giáng thăng 降升: Xuống và lên; ý nói thường hay giáng cơ ban ơn và dạy bảo.

ân điển 恩典: Ơn huệ do Trời Phật, Tiên Thánh, Bồ Tát ban bố.

soi lằn: Làn (lằn) ánh sáng soi rọi, soi chiếu.

tối tăm: Nghĩa bóng là vô minh 無明; không hiểu biết, ngu dốt. Do vô minh mà phạm lỗi, tạo nghiệp xấu.

u Câu 9-10 ý nói: Nguyện cầu Bảo Đức Kim Tiên thường hay giáng trần để ban bố ân điển, soi sáng chúng sanh thoát khỏi vô minh.

Câu 11-12: Thay Thầy dìu dắt nguyên nhân / Chịu nhiều lao khổ nhọc nhằn sá chi.

thay Thầy: Thay mặt Thầy (Cha Trời) để dìu dẫn đàn em mình (là tín đồ ) trên đường tu học chính là bổn phận cao cả của đàn anh, đàn chị (là chức sắc 職色).

dìu dắt: Chỉ dẫn, dạy bảo, chăm nom, săn sóc.

nguyên nhân (nhơn): 原人: Là linh căn 靈根 có nguồn gốc từ cõi Trời, nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân (nhơn) 化人 là người vốn từ cầm thú tiến hóa lên. Theo Ngọc Lộ Kim Bàn 玉露金盤, sau hai kỳ phổ độ thì còn sót lại chín mươi hai ức nguyên nhân (cửu thập nhị ức nguyên nhân 九十二億原人) cần được đưa hết về thượng giới trong Kỳ Ba (hạ nguơn).

lao khổ 勞苦: Cực nhọc; vất vả.

sá chi: Sá gì; kể chi; chẳng đáng bận lòng. Thí dụ: Sá chi một mảnh thiền quyên 嬋娟 [gái đẹp] buộc mình.” (Sáu Trọng) Sá chi một mảnh tình hồng.” (Bạch Tiểu Phụng)

u Câu 11-12 ý nói: Bảo Đức Kim Tiên thay mặt Đức Chí Tôn dìu dắt nguyên nhơn trên bước đường tu hành, chẳng quản ngại biết bao lao khổ nhọc nhằn.

Câu 13-14: Hôm nay Thánh Đản đến kỳ / Đèn hồng hương kỉnh cũng vì buổi xưa.

Thánh Đản 聖誕: Ngày sanh của một Đấng thiêng liêng (Thần, Thánh, Tiên); riêng với Đức Phật thì gọi là Phật Đản . Người Hoa gọi ngày Phật Đản là Phật Đản Tiết ; gọi ngày Chúa Giáng Sinh (Noël) là Thánh Đản Tiết 聖誕節.

đến kỳ: Tới ngày đã định (định kỳ 定期; kỳ hạn 期限).

đèn hồng: Đèn (nến) thắp sáng (đỏ đèn). Ghi chú: Đỏ đèn là thắp đèn. Thí dụ: “Láng giềng đã đỏ đèn đâu. (Nguyễn Bính)

hương kỉnh: Nhang đốt và kính cẩn dâng lên.

cũng vì buổi xưa: Cũng vì nhớ công đức Tô tiền bối hành đạo độ đời ngày trước.

u Câu 13-14 ý nói: Hôm nay kỷ niệm ngày Bảo Đức Kim Tiên giáng sanh, đạo hữu thắp đèn dưng hương kính bái, tưởng niệm công đức của Ngài thuở xưa.

Câu 15-16: Ơn Trên nhuần gội sớm trưa / Thánh Tòa cung phụng rước đưa sĩ tài.

nhuần gội: 1/ Chịu ơn rất hậu. 2/ (Nghĩa trong bài) ban ơn rất hậu.

sớm trưa: Buổi sáng và buổi trưa. Nghĩa bóng là suốt ngày; trọn ngày; cả ngày.

Thánh Tòa 聖座: Tòa Thánh. (Ở đây là Tòa Thánh Ngọc Kinh, chữ Nho là Ngọc Kinh Thánh Tòa 玉京聖座.)

cung phụng 供奉: Tiếp đãi trọng hậu.

sĩ tài 士才: Người có học vấn, phẩm hạnh, và tài năng.

u Câu 15-16 ý nói: Tòa Thánh luôn tiếp nhận được ân điển thiêng liêng; đây là nơi tiếp đón các hiền sĩ tài đức để cùng nhau phụng sự Đạo Thầy, cứu độ nhơn sanh.

Câu 17-18: Nguyện cầu ân đức hoằng khai / Cửu Trùng, Thiên Hiệp hòa hai ý nguyền.

ân đức 恩德: Ơn huệ và đức độ.

hoằng khai 弘開: Phát triển (mở mang) rộng lớn.

Cửu Trùng, Thiên Hiệp: Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Ghi chú: Chữ thứ tư câu bát phải là thanh trắc; do đó, đảo ngữ “Hiệp Thiên” thành “Thiên Hiệp”.

hòa hai: 1/ Cả hai đều hòa thuận, hòa hiệp, hòa ái với nhau. 2/ Cả hai đều tương xứng về các mặt (phẩm vị, tài đức, tâm hạnh).

ý nguyền: Ý nguyện 意願; lòng mong mỏi, ước muốn.

u Câu 17-18 ý nói: Xin nguyện cầu Bảo Đức Kim Tiên rộng ban ơn đức, phù trợ Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài cùng hòa hài với nhau trong ý nguyện độ đời.

Câu 19-20: Kính mừng Bảo Đức Kim Tiên / Chơn Nhơn Chưởng Quản hồi nguyên Tiên Tòa.

Trong bài thơ “lục bát thủ vĩ”, hai câu kết này lặp lại hai câu mở đầu (đã giải thích ở trên).

TỔNG LUẬN

1. Ngày 15- 8 Nhâm Dần (Thứ Năm 13-9-1962), tiền bối Tô Bửu Tài được Đức Chí Tôn ân phong phẩm Ngọc Đầu Sư, và ban Thánh danh là Kiến Đức 建德 (kiến tạo 建造, gầy dựng đức độ cho bản thân). Trong suốt tám năm (1962-1970) làm tròn trọng trách Chưởng Quản Cửu Trùng Đài Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý, Tô tiền bối chẳng những đã kiến tạo thành công nền tảng đức độ bản thân mà còn bảo vệ, giữ gìn sự nghiệp đạo đức của Hội Thánh, của đồng đạo. Bởi thế, khi đắc Đạo, quả vị của Ngài là “Bảo Đức Kim Tiên”.

Sau đây, chúng ta thử suy gẫm nghĩa lý một số lời kinh với ý hướng đem lời kinh áp dụng cho bản thân mình.

2. Câu 6 (Đường Tiên nẻo Thánh thung dung trở quày) gợi nhiều suy nghĩ sâu xa. Khi nói trở quàytức là có sự chuyển hướng (trở gót quày chân), không tiếp tục bước tới nữa. Vì sao thế?

Cứ tiếp tục đi tới nghĩa là xuôi thuận theo dòng đời, mải mê đua chen theo cuộc sống vật chất. Nhưng trở gót quày chân nghĩa là quay lại, đi ngược dòng đời để học đạo, tu hành. Nói cách khác, muốn bước lên “đường Tiên nẻo Thánh để sau này từ biệt trần gian sẽ được hưởng cảnh “thung dung” (thong thả, thanh nhàn) thì bây giờ hãy làm trái ngược với những gì người đời (chưa tu) vẫn làm. Thí dụ: Người đời ham làm giàu, say mê tích trữ của cải, thì người tu biết sống vừa đủ. Người đời thích hưởng thụ cao lương mỹ vị, rượu ngon thịt béo, thì người tu vui lòng ăn chay đạm bạc với rau đậu, tương chao, v.v...

Sự chuyển hướng để đi ngược dòng đời (nghịch hành 逆行) như vừa nói trên còn được kinh sách gọi là “hồi đầu” 回頭 (quay đầu lại). Dĩ nhiên ngược dòng bao giờ cũng khó hơn xuôi dòng; thế nên, tu hành không hề là chuyện dễ dàng, một sớm một chiều.

3. Câu 7 (Rước đưa đến bến Cao Đài) ngụ ý nhắn nhủ chúng ta nên biết trân trọng đón rước nhơn sanh, niềm nở tiếp đón họ vào Đạo, sốt sắng tạo duyên lành giúp họ tu hành mà tìm về với Đức Cao Đài. Như thế, chẳng những cửa Đạo hãy rộng mở mà chúng ta lại còn hoan hỷ dang tay trân trọng tiếp rước nhơn sanh bước vào cửa Cao Đài.

4. Rời khỏi bến khởi nguyên (cõi Trời) ra đi, bước vào thế gian, mỗi người trong chúng ta (vốn là nguyên nhơn ) đâu khác chi nhà buôn đem vốn liếng ra kinh doanh. Vốn liếng đó chính là “bổn căn” (linh quang) Trời ban sẵn. Làm ăn thất bát, lỗ vốn, hết vốn thì làm sao ta trở về bến cũ (cõi Trời)? Đây là nỗi khổ của chín mươi hai ức nguyên nhơn sau hai kỳ phổ độ (theo Ngọc Lộ Kim Bàn).

Thế nên, chúng ta phải tìm cách cho vốn liếng sanh lời, càng nhiều lời càng tốt; nghĩa là làm sao cho linh quang đừng lu mờ mà càng lúc càng sáng rỡ thêm hơn.

Chọn được chỗ tốt, nhà buôn giỏi mới bỏ vốn làm ăn (đầu tư sanh lợi). Tu hành cũng vậy; chúng ta cần có một tập thể Cao Đài để nương náu tu hành. Tùy duyên, tùy Ơn Trên an bài mà mỗi môn sanh Cao Đài đều có một Nhà Thánh phù hợp dành cho mình. Riêng với Tô tiền bối (Ngọc Đầu Sư Kiến Đức), chỗ tốt cho Ngài “đầu tư vốn liếng” chính là Hội Thánh Bạch Y, như câu 8 bài kinh nói: Bạch Y Chơn Lý dồi mài bổn căn.

5. Ngoài mục đích cầu xin Bảo Đức Kim Tiên mở lượng cả (lòng bao dung, tha thứ) cho chúng ta, câu 9 (Mong nhờ lượng cả giáng thăng) còn ngụ ý nhắc chúng ta hãy biết mở lòng hỷ xả đối với người khác.

Theo Phúc Âm, một hôm tông đồ Phê-rô bước tới gần Đức Giê-su và hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm con, thì con phải tha thứ họ mấy lần? Có phải bảy lần không ạ?” Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo bảy lần, mà là bảy mươi lần bảy.” (Gio-an, chương 18, câu 21-22)

6. Sứ mạng Cao Đài trong Kỳ Ba quá lớn vì nhắm tới phạm vi toàn cầu; bởi thế, nhân lực xứng đáng (sĩ tài) luôn luôn là một trong các mối ưu tư hàng đầu của các Hội Thánh, Tòa Thánh nói chung, chớ không riêng của Hội Thánh Bạch Y và Tòa Thánh Ngọc Kinh. Do đó, câu 16 (Thánh Tòa cung phụng rước đưa sĩ tài) còn ngụ ý khuyên nhủ, nhắc nhở chúng ta nên có lòng khiêm tốn, biết chiêu hiền đãi sĩ để có thể quy tụ rất nhiều bậc sĩ tài tìm đến giúp việc cho Tòa Thánh, Hội Thánh, hợp tác với chúng ta.

Tục ngữ có câu: “Đất lành chim đậu.” Thế nên, để có thể “rước đưa sĩ tài” thì chúng ta cần gầy dựng đầy đủ các điều kiện giúp cho nhơn sanh nhìn thấy rõ và vững tin rằng Tòa Thánh, Hội Thánh chúng ta quả thực là “đất lành” như lời Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh khuyên dạy:

Thảo mộc tốt rầy sâu quy tụ

Ruộng lúa lành quyến dụ chim trời

Đất lành hoa quả tốt tươi

Chùa linh, Đạo sáng, mọi người tin theo.([4])

7. Tóm lại, bài Kính Xưng Tụng Bảo Đức Kim Tiênkhông phải chỉ có mục đích ca tụng công đức, gương sáng tu thân hành đạo của tiền bối Kiến Đức (Tô Bửu Tài), rồi cầu xin Bảo Đức Kim Tiên ban ơn hộ trì chúng ta tu hành; thật ra, còn sâu xa hơn thế nữa, khi tụng bài kinh này tức là chúng ta đang tự nhắc nhở bản thân hãy làm đúng những gì như lời kinh nói về Ngài. Hiểu như vậy thì việc tụng kinh này mới thật sự làm đẹp lòng Bảo Đức Kim Tiên.

Ghi chú

Xem thêm Phụ Đính ở cuối sách để biết:

Hành trạng (tiểu sử) tiền bối Kiến Đức Tô Bửu Tài.

Ngọc sắc ban Tiên vị Bảo Đức Kim Tiên.

Thánh giáo đầu tiên của Bảo Đức Kim Tiên.

Huệ Khải


([1]) Nãi tối cao địa vị, thiên địa hủy diệt thời, nhứt thiết hữu hình hữu chất, đô hóa vi ô hữu, [...], duy Kim Tiên dĩ siêu xuất thiên địa chi ngoại, bất thọ ảnh hưởng, nhi lịch kiếp bất hoại, thả năng trùng tạo thiên địa, lánh lập thế giới... 乃最高地位天地毀滅 一切 有形有質都化為烏有, [...], 唯金仙已超出天地之外不受影響而歷刼不壞且能重造天地另立世界... (戴源長, 仙學辭典)

([2]) Chơn Nhơn giả, thể đỗng hư vô, dữ Đạo hợp chơn, đồng ư tự nhiên, vô sở bất năng, vô sở bất tri, vô sở bất thông. 真人者, 體洞 虛無, 與道合真, 同於自然, 無所不能, 無所不知, 無所不通. (洞元 自然經訣)

([3]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 19-02 Bính Dần (Thứ Sáu 28-3-1986).

([4]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 19-02 Bính Dần (Thứ Sáu 28-3-1986).