Thứ Hai, 27 tháng 1, 2025

Phụ Đính 1: HÀNH TRẠNG TIỀN BỐI KIẾN ĐỨC

 

Phụ Đính 1: HÀNH TRẠNG

TIỀN BỐI KIẾN ĐỨC TÔ BỬU TÀI

Tiền bối Tô Bửu Tài (giấy tờ ghi là Tô Bửu Xái)([1]) sanh năm Bính Tuất (1886). Thân phụ là ông Tô Hòa (1832-1893), người Tiều, tức Triều Châu 潮州 (nay thuộc tỉnh Quảng Đông 廣東). Thân mẫu là bà Nguyễn Thị Bảy (1865-1910) sanh sống với nghề làm bánh ở làng Minh Lương, hạt tham biện Rạch Giá. Theo cách gọi trong Nam, tiền bối Tô Bửu Tài là con thứ tư (trên có hai anh, dưới có hai em gái và một em trai).

Với nghề buôn bán ở làng Phi Thông,([2]) tiền bối Tô Bửu Tài và bạn đời là Huỳnh Thị Tư (1887-1977) đều hành đạo tại Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý cùng với bảy người con (năm nữ, hai nam).([3])

Năm 1929, khúc kinh xáng ngang làng Mong Thọ ([4]) hoàn thành. Gặp lúc buôn bán phát đạt, ngày Thứ Sáu 11-4-1930, Tô tiền bối mua miếng đất 3,4 mẫu của bà quả phụ Trần Thị Chánh với giá 250 đồng;([5]) thủ tục giấy tờ hoàn tất ngày Thứ Tư 20-5-1931.

Giữa năm 1926, Tô tiền bối hầu đàn cơ vài lần tại nhà tiền bối Đoàn Văn Kỳ (1863-1960), tức Ba Kỳ, gần chùa Phật Lớn (thuộc Phật Giáo Nam Tông, nay ở số 151 Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá).

Trong một tháng, từ 10-9 đến 10-10 Bính Dần (Thứ Bảy 13-10 tới Chủ Nhựt 14-11-1926), vâng lịnh Đức Chí Tôn, quý tiền khai Lê Văn Trung (Thượng Trung Nhựt), Nguyễn Ngọc Thơ (Thái Thơ Thanh), và Trần Đạo Quang, v.v... cùng cặp đồng tử phò loan (Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc) hiệp thành nhóm thứ nhứt trong ba nhóm Phổ Độ Lục Tỉnh. Nhóm này phụ trách chín tỉnh: Bạc Liêu, Cần Thơ, Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá,([6]) Sóc Trăng, Trà Vinh, và Vĩnh Long.([7]) Đây là cơ duyên để người dân Rạch Giá (trong đó có Tô tiền bối) sớm biết tới tôn giáo Cao Đài.

Sau khi dự đại lễ Khai Minh Đại Đạo ngày 15-10 Bính Dần (Thứ Sáu 19-11-1926) và nhập môn tại Thiền Lâm Tự (chùa Gò Kén, làng Long Thành, Tây Ninh), Tô tiền bối cùng với nhiều bạn đồng hương trở về Rạch Giá mang theo đức tin Cao Đài để bắt đầu gieo hạt giống Đạo Trời tại làng Mong Thọ, rồi lan ra các nơi trong tỉnh Rạch Giá, một số Thánh thất lần lượt hình thành.

Năm 1930, Tô tiền bối hiến miếng đất 3,4 mẫu vừa mua của bà quả phụ Trần Thị Chánh để xây dựng Thánh thất Mong Thọ cùng với công quả của bổn đạo địa phương. Thánh thất lạc thành đầu năm 1931; đây là tiền thân của Ngọc Kinh Thánh Tòa.([8])

Ngày 15-7 Tân Mùi (Thứ Sáu 28-8-1931), Tô tiền bối thọ Thiên phong phẩm Ngọc Giáo Sư.

Thực dân Pháp đàn áp đạo Cao Đài khốc liệt (1940-1943); Thánh thất Mong Thọ bị đóng cửa (1942).([9])

Tô tiền bối bị thực dân Pháp bỏ tù (1946-1947).

Ngày 15-8 Canh Dần (Thứ Ba 26-9-1950), Đức Chí Tôn ân phong Tô tiền bối phẩm Ngọc Đầu Sư.

Năm 1955, Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý được thành lập; Ngọc Đầu Sư Tô Bửu Tài được công cử làm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài.

Ngày 15-8 Nhâm Dần (Thứ Năm 13-9-1962), nhân lễ an vị Ngọc Kinh Thánh Tòa, Đức Chí Tôn ân ban Tô tiền bối Thánh danh Kiến Đức 建德:

TÀI Chưởng Quản danh cao KIẾN ĐỨC ([10])

Làm sao ra đúng bực trượng phu ([11])

Đàn em toan tính ưu tư ([12])

Hòa đồng tập thể chí ư hạ mình.([13])

Ngày 25-5 Canh Tuất (Chủ Nhựt 28-6-1970), Ngọc Đầu Sư Kiến Đức Tô Bửu Tài quy Thiên.

Giờ Dậu, ngày 28-5 Canh Tuất (Thứ Tư 01-7-1970), Đức Thái Bạch Kim Tinh giáng lâm Tòa Thánh Ngọc Kinh để tuyên đọc Thiên khải 天啟 của Đức Huyền Khung Cao Thượng Đế, sắc ban Ngọc Đầu Sư Kiến Đức Tô Bửu Tài phẩm vị Bảo Đức Kim Tiên. Cùng ngày, giờ Tuất, Bảo Đức Kim Tiên giáng đàn.

Huệ Khải



([1]) Xái: Do giọng Tiều nói chữ “Tài” ( tài năng; tiền tài), gần giống như “txái” giọng Việt Nam. Giọng Bắc Kinh là [cái], gần giống như “txải” giọng Việt Nam.

([2]) Nay là xã Minh Lương (thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang).

([3]) Gồm các vị: 1/ Bà Tô Cẩm Hà (1908-2009). 2/ Ông Tô Tấn Thành (1912-1939), đắc quả vị Trung Nhạc Thần. 3/ Ông Tô Xuân Quang (1914-1949). 4/ Bà Tô Kim Hoa (1919-2002). 5/ Bà Tô Kim Se (1921-2009), Nữ Phối Sư, là bạn đời tiền bối Nguyễn Đức Thắng (1923-2003), Thánh danh Thiện Quang, Đầu Sư Chưởng Quản Cửu Trùng Đài. 6/ Bà Tô Kim Xuyến (1924-2005), Thánh danh Tuyết Minh, làm điển văn (điển ký). 7/ Bà Tô Yến Tuyết (sanh năm 1930), Giáo Hữu, Ban Lương Viện.

([4]) Nay là xã, thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.

([5]) Năm 1930 ở Nam Kỳ, giá trung bình một giạ (bốn mươi lít) lúa là 1,37 đồng. (Tuần báo Phụ Nữ Tân Văn, số 219. Sài Gòn: 05-10-1933, tr. 7.) Vậy, 250 đồng tương đương hơn 182 giạ lúa (hay hơn 7.280 lít lúa).

([6]) Hạt tham biện Rạch Giá đổi thành tỉnh ngày 01-01-1900.

([7]) Huệ Khải, Lược Sử Đạo Cao Đài Khai Minh Đại Đạo 1926. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2024, tr. 16-17.

([8]) Cuối năm 1936 họ đạo Mong Thọ đồng thuận hiến Thánh thất làm Tòa Thánh. Đức Lý Thiết Quài ban cho bản vẽ Tòa Thánh (1937). Hội Thánh Bạch Y xây dựng Tòa Thánh (1957-1962).

([9]) Nghị Định số 72 ngày 03-5-1940 của Toàn Quyền Đông Dương Joseph Jules Brévié cấm treo cờ phướn có dấu hiệu chữ Vạn vì trong Thế Chiến thứ Hai (1939-1945), cờ Đức Quốc Xã có dấu hiệu chữ Vạn nghiêng; các thánh sở Cao Đài thường gắn chữ Vạn đều bị liên lụy. Huệ Khải, Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ (1928-1950). Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr. 20.

([10]) kiến đức 建德: Kiến tạo 建造, gầy dựng đức độ cho bản thân.

([11]) trượng phu 丈夫: Đàn ông tài giỏi, có khí tiết, đáng kính trọng.

([12]) ưu tư 憂思: Lo nghĩ. đàn em toan tính ưu tư: Câu này đọc xuôi nghĩa là phận đàn anh (tức Ngọc Đầu Sư Tô Bửu Tài) luôn luôn lo nghĩ, toan liệu trước những gì cần làm cho đàn em.

([13]) chí ư 至於: Tới mức. Hòa đồng tập thể chí ư hạ mình: Hòa đồng với tập thể tới mức hạ mình.