12. THẬP NGUYỆN
1.
Rày vào cửa Tam Kỳ Đại Đạo
Dâng
tấc thành thệ cáo Huyền Khung
Ngửa
xin Thần Thánh chứng cùng
Tam
Thanh đệ tử chẳng lòng tư riêng
5.
MỘT nguyện độ vô biên sanh chúng
Vì
giấc còn mờ mộng liên miên
HAI nguyện dứt cuộc não phiền
Ghi
lời Thánh huấn ròng chuyên Đạo Thầy
9.
BA nguyện sửa đêm ngày thói xấu
Thói
xấu chừa lục cấu hết mong
BỐN nguyện rõ được lục thông
Bụi
hồng phủi sạch vun trồng cội nhơn
13.
NĂM nguyện nhớ bốn ơn khắng khít
Nếu
lòng sai tội nghịch Thiên điều
SÁU nguyện dứt tánh tự kiêu
Trừ
lòng dục vọng đặng siêu nguơn thần
17.
BẢY nguyện được chân thân viên mãn
Đến
Ngọc Kinh trước án chầu Thầy
TÁM nguyện Đạo phát hằng ngày
Trên
trời dưới đất quyền tay Thầy cầm
21.
CHÍN nguyện thấy đồng tâm bốn bể
Lòng
đã không chia rẽ ta người
MƯỜI nguyện non nước nơi nơi
Thái
bình thạnh trị đời đời an vui.
(Lạy 3 lạy không gật)
XUẤT XỨ
Với nhan đề “Thành Tâm Cầu Thập Nguyện”, bài này có ở hai trang 4 và 5 cuốn KTT 1938. (Không cho biết Đấng nào ban
trao.)
GIẢI NGHĨA
Nhan đề:
Thập Nguyện 十願: Mười điều hứa nguyện (cầu nguyện; ước vọng; nguyện vọng; mong muốn, v.v...).
Thập (mười) thường được dùng với mấy ý nghĩa
như: thập phần 十分 (hoàn hảo; trọn vẹn); thập thành 十成 (đầy đủ; hoàn toàn); thập toàn 十全 (đầy đủ; hoàn hảo). Do
đó, những khi khuyên dạy môn đệ, Ơn Trên thường mượn hình thức “mười điều tâm
niệm”. Chẳng hạn:
1. Đại Đức Ngô Tiên (Ngô Minh Chiêu) ban cho mười lời khuyên, mở đầu là “Một là tu cho người trông cậy ...”, và kết thúc là “Mười
khuyên nhau đóng góp tình thương ...”
([1])
2. Đức Diêu Trì Kim Mẫu ban cho mười lời khuyên, mở đầu là “Một khuyên con kính thờ Đạo Cả ...”, và
kết thúc là “Mười khuyên đừng để Mẹ phiền không nên.” ([2])
3. Đức Trường Canh Tiên Trưởng
(Lý Thái Bạch) ban cho mười lời khuyên, mở
đầu là “Một khuyên phải nhẫn kiên trọn Đạo ...”, và kết thúc là “Mười khuyên đừng lướng
vướng sự tình ...” ([3])
4. Đức Đông Phương Lão Tổ ban cho mười lời khuyên, mở đầu là “Một khuyên nhớ giữ gìn trung
chính ...”, và kết thúc là
“Mười khuyên chung củng cố nội tình ...” ([4])
5. Thừa lịnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu,
Đức Khương Thái Công Quản Pháp Thiên Tôn ban cho “Thập Lệ Điều”, mở đầu là “Điều
thứ nhứt kỷ cương vẹn giữ ...” và
kết thúc là “Điều thứ mười trước đàn nghiêm chỉnh ...” ([5])
6. Đức Lý Thái Bạch ban cho mười lời khuyên, mở đầu là “Một khuyên gắng hy sinh hành đạo ...”, và kết thúc là “Mười
khuyên nhớ lời Thầy quyền Đạo ...”
([6])
7. Đức Bảo Thọ Thánh Nương ban cho mười lời khuyên, mở đầu là “Một nghe ta thanh thanh tịnh
tịnh ...” và
kết thúc là “Mười lời đó nên ghi nên nhớ ...” ([7])
8. Trong Sấm Giảng Huỳnh Đạo (phần
Sấm Giảng Trung Giang, tr. 18-21) của
Hội Thánh Nhị Giang, Tòa Thánh Bửu Sơn, núi Cấm, Tri Tôn, Châu Đốc (không ghi
năm xuất bản) có in mười lời khuyên
của Thầy, mở đầu là “Điều thứ nhứt Thầy
khuyên nên nhớ ...”, và
kết thúc là “Điều chót hết mười ghi trăm nhớ ...”
9. Đức Ngô Minh Chiêu ban cho môn sanh Chiếu
Minh “Thập Thanh Điều” như sau:
Một khuyên giảm khẩu bớ con
Hai khuyên chánh kỷ cho tròn hóa nhơn
Ba khuyên giảm tánh giận hờn
Bốn khuyên giữ lễ chớ lờn oai Tiên
Năm khuyên kính mến người hiền
Sáu khuyên đậy mắt lánh miền thị phi
Bảy khuyên học chữ từ bi
Tám khuyên hành đạo kịp thì Long Hoa
Chín khuyên suy xét gần xa
Mười khuyên lập nết ôn hòa độ dân.
Ghi chú: Có lẽ
vì nhan đề là “Thập Nguyện” nên trong KNT 2016 và NĐCT 2022, mười
câu 5, 7, 9, 11, 13, 15, 17, 19, 21, 23 đều in là “nguyện”. Trái lại,
bản gốc KTT 1938 đều in là “nguyền”. Mặc dù “nguyền” (chữ Việt)
cùng nghĩa với nguyện 願 (chữ Nho), nhưng khi sửa như vậy thì không đúng về luật bằng
trắc trong thơ song thất lục bát. Cụ thể:
– Năm
câu 7, 11, 15, 19, 23 là câu lục; chữ thứ hai phải là thanh bằng. Do đó, in “nguyền” như bản gốc KTT 1938 thì đúng luật thơ.
– Năm
câu 5, 9, 13, 17, 21 là câu thất; chữ thứ hai có thể là thanh bằng hay trắc.
Tuy nhiên, in “nguyền” như
bản gốc KTT 1938 thì nhứt quán với chữ
“nguyền” ở năm
câu lục.
Câu 1-2: Rày vào cửa Tam Kỳ Đại Đạo / Dâng tấc thành thệ cáo Huyền Khung.
rày: Bây
giờ; lúc này; nay. Thí dụ: Rày đây mai đó (nay chỗ nầy, mai chỗ
khác; không chỗ ở chắc chắn.)
vào cửa: Nhập
môn 入門; vào
(đạo); theo (tôn giáo).
tấc thành: Tấc
lòng thành thật; tấm lòng thành thật. Chữ Nho gọi “tấc lòng” là thốn tâm
寸心. Thốn là tấc xưa (tương đương 3,3cm); tâm là tấm lòng.
thệ cáo 誓告: Xin
thề với. Thí dụ, Thư Kinh 書經 có câu: Dư thệ cáo nhữ. 予誓告汝. (Tôi thề với ông.)
Huyền Khung 玄穹: Nói đủ là Huyền
Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn 玄穹高上帝玉皇大天尊.
u Câu 1-2 ý nói: Nay chúng con tu theo Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chúng con dâng lòng thành mà thề với Trời.
Câu 3-4: Ngửa xin Thần
Thánh chứng cùng / Tam tài đệ tử chẳng lòng tư riêng.
Ghi chú: NĐCT 2022 cũng in là “tam tài”. Bản gốc KTT 1938 in là “Tam Thanh”.([8])
ngửa: Ngước lên; ngẩng
lên; ngửa mặt lên.
cùng: Với. Thí dụ: cậy cùng (cậy nhờ với); cứu cùng (cứu với); đi cùng (đi với); nguyện cùng (nguyện xin với); nói cùng (nói với); ở cùng (ở với); sống cùng (sống với); vái cùng (vái van với); xin cùng (xin với), v.v...
Theo luật bằng trắc trong thơ song thất lục bát, phải đặt chữ “cùng” ở cuối câu lục để có thanh bằng
và ăn vần với chữ “Khung” cuối câu
thất (câu 2) ở trên. Theo văn xuôi thì có thể viết: Ngửa xin cùng Thần Thánh chứng.
tam tài 三才: Ba
ngôi trong vũ trụ là trời, đất, người (thiên,
địa, nhân 天地人). Nghĩa bóng
là trời đất và muôn
loài chúng sanh.
đệ tử 弟子: Kẻ học trò; tín đồ. Lời học trò (hay tín đồ) tự xưng
khi nói với thầy mình (hay bạch cùng Trời Phật).
lòng tư riêng: Tư tâm 私心; lòng ích kỷ, chỉ nghĩ tới lợi ích bản thân, chỉ biết
có mình.
u Câu 3-4 ý nói: Ngước trông lên (Thánh tượng Đức
Chí Tôn), chúng con cầu xin Ơn Trên (Thần Thánh) chứng giám (chứng minh) lòng thành
của chúng con: Sống giữa trời đất và muôn loài chúng sanh, chúng con chẳng có
bụng riêng tư, lòng ích kỷ.
Câu 5-6: MỘT nguyện độ vô biên sanh chúng / Vì giấc còn mờ mộng liên miên.
nguyện 願: Hứa nguyện
(cầu nguyện; ước vọng; nguyện vọng; mong muốn, v.v...).
độ 度(渡): Đưa người từ bờ bên này là bờ mê (mê ngạn 迷岸) qua bên kia là bờ giác (giác ngạn 覺岸) để thoát khỏi sông mê (mê hà 迷河), vượt qua bể khổ (khổ hải 苦海).
vô biên 無邊: Không giới hạn; vô số 無數.
sanh chúng: Chúng
sanh 眾生; mọi loài có sự sống.
giấc:
Khoảng thời gian khá ngắn trong ngày. Thí dụ: giấc sáng; giấc
trưa; giấc chiều; giấc tối; giấc ngủ. Ám chỉ đời người
(vốn dĩ ngắn ngủi).
mờ mộng: Mờ hồ mộng ảo; không chắc chắn, không thật.
liên miên: Kéo
dài không dứt; nối tiếp nhau cái này chưa xong lại tiếp tới cái khác.
u Câu 5-6 ý nói: Thứ nhứt, chúng con nguyện cứu
độ (phổ độ) vô số chúng sanh vì đời người ngắn ngủi mà lại còn không dứt những
cơn mộng mị (ham chuộng, đua chen theo những thứ không thật, nay còn mai mất).
Câu 7-8: HAI nguyện dứt cuộc não phiền / Ghi
lời Thánh huấn ròng chuyên Đạo Thầy.
não phiền: Phiền não 煩惱; tất cả những thứ làm cho tâm hồn rối loạn, nhớ nhung,
buồn sầu, khổ não. Bất kỳ thứ gì tác động đến tâm hồn, làm trở ngại sự tu tập để
mất tâm thanh tịnh, không đạt được giác ngộ đều là phiền não. Vì bị mê lầm (ảo
tưởng; huyễn tưởng) chi phối, vì muốn thỏa mãn ham muốn (dục vọng 欲望) mà tâm hồn bị
phiền não. Trái nghĩa với phiền não là thanh
tịnh 清淨.
Thánh huấn 聖訓: Lời các Đấng thiêng liêng dạy dỗ.
ròng chuyên: Chuyên
ròng; thật giỏi; tinh thông 精通, ngày đêm thực hành cho lão luyện (thuần thục).
u Câu 7-8 ý nói: Thứ hai, chúng con nguyện dứt
hết phiền não, giữ lòng thanh tịnh, ghi nhớ Thánh huấn, học đạo Cao Đài cho
tinh thông, và luôn luôn hành đạo chuyên cần.
Câu 9-10: BA nguyện sửa đêm ngày thói xấu /
Thói xấu chừa lục cấu hết mong.
đêm ngày: Luôn luôn;
liên tục, ngày cũng như đêm.
chừa: Từ
bỏ; dứt bỏ.
lục cấu 六垢: Sáu thứ
ô nhiễm làm cho tâm mất thanh tịnh; vì thế, lục cấu cũng là phiền não.
Lục cấu gồm: não 惱 (bực
bội; buồn phiền; cáu kỉnh; tức giận); hại
害 (đố kỵ; ghen ghét); hận
恨 (thù oán); siểm 諂 (nịnh
nọt); cuống 誑 (gian
dối; lừa gạt); kiêu 憍 (kiêu
căng; ngạo mạn).
hết mong: Đừng
hòng.
u Câu 9-10 ý nói: Thứ ba, chúng con nguyện luôn
luôn sửa chữa thói hư tật xấu; nhờ vậy, lục cấu (hay phiền não) đừng hòng nảy sanh
làm rối loạn lòng chúng con.
Câu 11-12: BỐN nguyện rõ được lục thông / Bụi
hồng phủi sạch vun trồng cội nhơn.
lục thông 六通: Lục thần thông 六神通. Sáu phép thần thông khi
đắc quả a la hán 阿羅漢, gồm có: 1/ Thiên
nhãn thông 天眼通 (thấy được mọi vật trong
vũ trụ). – 2/ Thiên nhĩ thông 天耳通 (nghe được mọi âm thanh trong vũ trụ). – 3/ Tha tâm thông 他心通 (biết được ý
nghĩ, tư tưởng người khác). – 4/ Túc mạng
thông 宿命通 (biết được kiếp trước,
kiếp này, kiếp sau của mình và người khác). – 5/ Thần túc thông 神足通 (đi khắp nơi
trong nháy mắt, biến hóa tùy ý). – 6/ Lậu tận
thông 漏盡通 (trong sạch hoàn toàn, dứt hết phiền não, dứt luân hồi, vào được niết bàn).
bụi hồng: Hồng trần 紅塵; bụi trần; bụi đỏ trần gian. Ám chỉ
những thứ ràng buộc ở cõi đời (như danh lợi, tình tiền, v.v...) làm tâm vướng bận, ô nhiễm, mất thanh
tịnh, khiến cho con người không thể giải thoát.
cội nhơn: Nhơn thọ (nhân thụ) 仁樹; cội cây lòng nhơn
(biết thương người). Lòng nhơn (hay đức nhân) có thể nuôi dưỡng để phát triển
cho lớn rộng thêm, nên ví như cội cây có thể chăm sóc cho cao lớn, xum xuê,
tươi tốt.
u Câu 11-12 ý nói: Thứ tư, chúng con nguyện tu
cho đắc lục thông (đắc quả Thánh a la hán)
bằng cách phủi sạch mọi thứ ràng buộc ở cõi đời, giữ tâm thanh tịnh, nuôi lớn
đức nhân ở lòng chúng con.
Câu 13-14: NĂM nguyện nhớ bốn ơn khắng khít /
Nếu lòng sai tội nghịch Thiên điều.
bốn ơn: Tứ ân 四恩. Có vài cách giải
thích khác nhau: 1/ Theo Cảm Ứng
Thiên Trực Giảng (của Hứa Chỉ Tịnh) là: Ơn trời đất, ơn vua, ơn cha mẹ, và
ơn thầy dạy.([9]) – 2/ Theo Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán Kinh (của Thái Hư Đại Sư) là: Ơn cha mẹ, ơn chúng sanh, ơn quốc vương, ơn tam bảo.([10]) – 3/ Theo Thích Thị Yếu Lãm
(của Thích Đạo Thành) là: Ơn
cha mẹ, ơn chúng sanh, ơn quốc vương, ơn thí chủ.([11]) – 4/ Theo Đệ Tử Quy là:
Ơn trời đất, ơn vua, ơn cha mẹ, và ơn thầy.([12])
khắng
khít: Khăng khít; gắn bó không rời.
Thiên
điều 天條: Điều luật của Trời.
u Câu 13-14 ý nói: Thứ năm, chúng con nguyện
luôn luôn không quên bốn ơn to tát trong đời chúng con. Nếu chúng con sai lời
nguyện là chúng con trái điều luật của Trời (Thiên luật 天律).
Câu 15-16: SÁU nguyện dứt tánh tự kiêu / Trừ
lòng dục vọng đặng siêu nguơn thần.
tự kiêu 自驕: Kiêu căng; kiêu hãnh; phách lối; coi rẻ người
khác; tự cho mình vượt trội hơn người khác. Bởi “cái tôi” (phàm ngã 凡我) quá lớn mà con người tự kiêu.
dục vọng 欲望: Ham muốn; thèm
muốn (những thứ không chánh đáng, trái đạo lý). Dục vọng là nguyên nhân làm con
người chịu khổ.
siêu 超: Vượt trội; vượt ra khỏi những gì
tầm thường.
nguơn thần (nguyên thần) 元神: Trong Đại Thừa Chơn Giáo, Đức Chí Tôn dạy: “Trời ban cho mỗi người một điểm linh quang (nguơn thần).
Điểm linh quang ấy phải đầu thai xuống thế giới hữu hình vật chất nầy, mượn xác
phàm tu luyện mới thành Tiên đắc Phật. Nhờ có cái xác phàm nầy mới thành đạo mà
tạo Phật tác Tiên, tiêu diêu cảnh lạc.” ([13])
siêu nguơn thần: Chế ngự thức thần 識神 để giúp cho nguơn thần làm
chủ lòng mình; nhờ thế, mình không bị lục dục và thất tình sai khiến.
Thức thần là gì? Thức thần là một phần của tâm con người, liên quan tới ý thức, suy
nghĩ và cảm xúc. Thức thần khiến cho mỗi người có “cái tôi” đáng ghét, trở nên ích
kỷ, tự cao tự đại, v.v... Thức thần
khiến cho con người ham muốn, chán chường, buồn bã, ghen ghét, tức giận, v.v... Vì thế, con người phiền não. Khi tiếp
xúc thế giới bên ngoài (ngoại giới), thức thần khiến con người biết phân biệt
giữa bản thân và ngoại giới; từ đó, thức thần sanh ra dục vọng, thúc đẩy con
người làm lợi cho bản thân, thỏa mãn ham muốn. Người đời thường để thức thần mặc
tình làm chủ lòng mình, sai khiến mình. Người tu luôn luôn kiểm soát thức thần,
không để thức thần lấn át (cướp quyền) nguơn thần.
Trong Đại Thừa Chơn Giáo, Đức
Chí Tôn dạy:
1/ “Trong cơ thể con người, vì bị thất tình cám dỗ, lục dục khiến sai, càng
ngày càng yếu ớt. Tuy nguơn thần sáng suốt, ưa thanh tịnh vô vi
nhưng bởi có thức thần nên mới hay động tác, mà nguơn thần thì thất
chánh. Còn thức thần lại đương quyền; nó làm chủ nhơn thân, nên ưa sự nầy, muốn
việc kia lăng xăng rộn rực, không cần đạo đức, chẳng kể tinh thần, chỉ chuộng
thỏa thích lòng vui của nó; nên nhiều khi nó giục con người làm chuyện quấy điều
hư, xấu xa đê tiện. Mà hễ nó sai khiến đặng thì nó lại còn khiến mãi không
thôi. Nó chác lòng ác đức, gây chuyện bất lương mà con người chỉ vùa theo ([14]) nó mãi. Nó lại có quỷ thất tình phụ sự, ma lục dục
giúp tay, nên chi ([15]) mới có tội lỗi, mà hễ có tội lỗi phải chịu đọa đày
trong vòng quả báo.”
2/ “Vậy con người cần phải phân biệt cái nào là nguơn thần,
cái nào là thức thần, sự nào chơn, điều nào giả. Có khi thức thần tính
làm chuyện quấy quá, tội tình, vô đạo đức mà trong đó lại có nguơn thần không
chịu cho làm những chuyện quấy quá.
Nguơn thần muốn làm điều ích lợi chung, còn thức thần thì toan bề ích kỷ.
Sự nào không cắn rứt lương tâm là của nguơn thần muốn vậy, còn sự nào nhức
nhối lương tâm là của thức thần ham muốn, khiến sai.
Trong tâm con người có nguơn thần và thức thần, khi thì muốn động tác,
lúc lại chịu vô vi, ấy là hai điều khá chọn lựa.”([16])
u Câu 15-16 ý nói: Thứ sáu, chúng con nguyện dứt
bỏ tánh kiêu căng, ngạo mạn và lòng ham muốn thấp hèn để chế ngự thức thần, giữ
cho nguơn thần làm chủ lòng chúng con.
Câu 17-18: BẢY nguyện được chân thân viên mãn /
Đến Ngọc Kinh trước án chầu Thầy.
chân thân (chơn thân)
真身: Nhị xác thân; cái thân bất diệt
phải do tu thiền (công phu, tịnh luyện) mới tạo ra được. Trái lại, thân thể xác
thịt là giả thân 假身, phải chịu bịnh tật, hao mòn, và tan rã sau khi chết. Vì thế, nhà Phật gọi
thân phàm này là thân tứ đại giả hợp 四大假合. Nói “giả hợp” vì sự hợp lại của bốn yếu tố đất, nước,
gió, lửa (tứ đại) chỉ tạm thời, không
vĩnh viễn; người chết rồi thì xác thân sẽ tan rã, tứ đại chia lìa.
Trong Đại Thừa Chơn Giáo, Đức
Chí Tôn dạy: “Ngoài cái giả thân nầy,
còn một cái chơn thân khác nữa. Chơn thân ấy là chi? Là nhị xác thân vậy.
Cái xác thân ấy vững bền muôn kiếp, sống mãi bằng Trời, không tử không sanh,
không thêm không bớt. Luyện đặng cái chơn thân nầy thì trường sanh bất tử, khỏi
chịu quả báo luân hồi, đời đời kiếp kiếp an hưởng vui chơi nơi Bồng Lai Tiên Cảnh,
ấy là Chơn Nhơn vậy.” ([17])
viên mãn 圓滿: Vẹn toàn; trọn vẹn; đầy đủ.
Ngọc Kinh: Bạch
Ngọc Kinh 白玉京; kinh thành
ngọc trắng, nơi Đức Thượng Đế ngự.
án 案: Cái bàn (đặt trước ngai Đức Chí Tôn).
chầu Thầy: Triều kiến Chí Tôn 朝見至尊; kính lễ Thượng Đế 敬禮上帝. Người tu chơn chánh, đắc đạo sẽ được phép vào quỳ
trước mặt Thầy và lạy Thầy (Đức Thượng Đế) trên Thiên Đình 天庭. Khi vào thánh thất
cúng kính thì đây cũng là cách chúng ta “chầu
Thầy”, bởi lẽ Đức Chí Tôn dạy: “Ai
cũng muốn Tây phương lạy Phật / Sao không lo thánh thất chầu Thầy?” (Tu Chơn Thiệp Quyết 修真捷訣)
u Câu 17-18 ý nói: Thứ bảy, chúng con nguyện tu
luyện cho đắc đạo (có được chơn thân toàn vẹn) để được phép vào Bạch Ngọc Kinh
chầu Đức Chí Tôn.
Câu 19-20: TÁM nguyện Đạo phát hằng ngày / Trên
trời dưới đất quyền tay Thầy cầm.
Đạo phát hằng ngày: 1/ Đạo Cao Đài luôn luôn phát triển (hoằng
dương 弘揚). – 2/ Mỗi người đều có sẵn
(tự hữu 自有) điểm Đạo nơi mình (tức là Thượng Đế Tánh 上 帝性, Phật Tánh 佛性, tự tánh 自性). Người tu chừa bỏ được thói hư tật
xấu, diệt trừ được tham, sân, si, dục thì chẳng khác nào vẹt khoát được bức màn
vô minh tăm tối đang che lấp ánh sáng của điểm Đạo sẵn có nơi mình, và làm cho
điểm Đạo này mỗi ngày mỗi sáng thêm hơn; như thế gọi là “Đạo nhựt tăng huy. 道日增輝.” Đây chính là cách hoằng dương Đạo Trời
một cách đích thực và bền vững, bởi lẽ “Chùa
linh, Đạo sáng, mọi người tin theo.” ([18])
u Câu 19-20 ý nói: Thứ tám, dưới quyền Đức Chí
Tôn cai quản khắp cả vũ trụ càn khôn, chúng con nguyện cầu đạo Cao Đài được
phát triển, mỗi ngày một lớn rộng hơn, bằng cách tu hành tinh tấn để cho điểm
Đạo tự hữu trong chúng con mỗi ngày một sáng hơn thì chúng con mới có thể góp
phần hoằng dương Đạo Trời.
Câu 21-22: CHÍN nguyện được đồng tâm bốn bể /
Lòng đã không chia rẽ ta người.
Ghi chú: NĐCT 2022 cũng in là “được”. Bản gốc KTT 1938 in là “thấy”.
đồng tâm 同心: Cùng một lòng; đồng lòng.
bốn bể: Tứ hải 四海; khắp nơi trong cõi thế gian.
ta người: Mình (kỷ 己) và người
khác (tha 他).
u Câu 21-22 ý nói: Thứ chín, chúng con cầu nguyện
cho người thế gian khắp nơi đều một lòng với nhau, không còn bụng phân biệt ta
và người (vô kỷ vô tha 無己無他).
Câu 23-24: MƯỜI nguyện non nước nơi nơi / Thái
bình thạnh trị đời đời an vui.
u Câu 23-24 ý nói: Thứ mười, chúng con nguyện
khắp nơi trong nước chúng con cũng như mọi quốc gia trên thế gian đều được hưởng
thái bình, thạnh trị mãi mãi.
TỔNG LUẬN
Trước khi thành tâm dâng lên mười lời nguyện, chúng ta xác định rằng
ngày nay mình may mắn đã vào cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, và là tín đồ đạo Cao
Đài. Khi ngửa trông lên Thánh
tượng Đức Chí Tôn, chúng ta cầu xin Ơn Trên (Thần Thánh) chứng giám (chứng
minh) cho lòng thành của mình, và những điều nguyện cầu này xuất phát từ lòng
vị tha, vì hướng tới lợi ích của chúng sanh.
1. Dâng lời nguyện thứ nhứt, chúng ta hướng về vô số chúng sanh, mong muốn cứu độ tất
cả. Đây chính là hạnh Bồ Tát. Mỗi người tu hành không phải chỉ để riêng cho bản
thân mình được giải thoát, mà còn để góp phần vào công cuộc tận độ toàn linh
của Đức Chí Tôn, chung tâm góp sức với Thầy xoay chuyển bánh xe tiến hóa cho
vạn loại. Minh Đức Đạo Nhơn nhắc nhở: “Kết quả đạt được
không chỉ để giải thoát cho riêng mình, mà chính là góp phần vào Thiên cơ cứu
độ chúng sanh trong buổi đời cùng cuối.” ([19])
2. Dâng lời nguyện thứ hai, chúng ta hứa dứt hết phiền não, giữ lòng thanh tịnh. Muốn
được vậy, chúng ta hãy học hiểu cho thông suốt Đạo Thầy và ghi nhớ Thánh huấn
để thực hành, áp dụng vào bản thân hằng ngày hằng giờ.
3. Dâng lời nguyện thứ ba, chúng ta hứa luôn luôn sửa thói hư tật xấu bản thân. Được
như vậy thì lục cấu (hay phiền não) không còn cơ hội làm rối loạn lòng chúng ta.
4. Dâng lời nguyện thứ tư, chúng ta hứa tu cho đắc lục thông (đắc quả Thánh) bằng
cách phủi sạch mọi thứ ràng buộc ở cõi đời, giữ tâm thanh tịnh, nuôi lớn đức
nhân ái (thương chúng sanh) ở lòng chúng ta.
5. Dâng lời nguyện thứ năm, chúng ta hứa luôn luôn không quên bốn ơn to tát trong đời
mình. Nếu sai lời nguyện thì chúng ta làm trái điều luật của Trời (Thiên luật). Vậy, chúng ta nên hiểu rõ
hơn về bốn ơn này.
5.1. Sanh ra và sống trên cõi đời, mỗi người chúng ta
đều phải chịu bốn ơn sâu nặng (trọng ân 重恩):
– Ơn cha mẹ tạo cho chúng ta hình hài
xác thịt, lại nhọc nhằn nuôi dưỡng, cho ăn học, gầy dựng gia đình, v.v...
– Ơn Thầy giáo, cô giáo thế gian mở
mang trí óc, truyền trao kiến thức, kỹ năng để chúng ta có nghề nghiệp kiếm
sống (mưu sinh). Nhưng trên hết chính là ơn đức vô biên từ vị Thầy vô vi (Đức
Chí Tôn) mở Đạo dạy dỗ chúng ta con đường giải thoát, siêu phàm nhập Thánh.
– Ơn đồng bào, nhơn loại đã cống hiến
những tiện ích mà chúng ta đang thừa hưởng.
– Ơn Tổ Quốc (đất nước) và tiền nhân đã
cho chúng ta thụ hưởng một bờ cõi sông núi xinh đẹp, một văn hóa phong phú làm
giàu đời sống vật chất và tinh thần chúng ta.
5.2. Đã biết ơn thì chúng ta nên biết cách trả ơn hay đền
ơn (báo ân 報恩) để khỏi phạm Thiên
điều (luật Trời).
– Đối với cha mẹ (hiểu rộng ra là gồm
cả ông bà), thì ngoài việc báo hiếu về vật
chất (phụng dưỡng cha mẹ, ông bà), chúng ta còn phải làm tròn trách nhiệm
nuôi dạy con cái của mình trở nên người tử tế để ông bà, cha mẹ vui lòng, để
gia đình và gia tộc được tiếng thơm. Đồng thời chúng ta còn biết thêm cách báo
hiếu về tâm linh, tức là hãy tu hành chơn
chánh để hồi hướng về ông bà, cha mẹ, con cái. Câu “tu cứu cửu huyền thất tổ” nhằm khuyên chúng ta nên biết báo hiếu
một cách tốt nhứt là tu hành.
– Đối với thầy cô thế gian, chúng ta
đừng lạm dụng kiến thức, kỹ năng đã học được ở nhà trường để làm những điều
trái đạo đức, vi phạm luật pháp. Đối với Thầy vô vi (Đức Chí Tôn), chúng ta cố
gắng học hiểu giáo lý, chăm lo tu hành và giữ gìn đạo hạnh để làm sáng danh
Thầy danh Đạo, góp phần hoằng dương Đạo Trời ra khắp năm châu.
– Đối với đồng bào, nhơn loại, và Tổ
Quốc, chúng ta tùy khả năng mà phụng sự xã hội và đất nước, góp phần xây dựng xã hội và đất nước phát triển bền vững, thanh
bình, hạnh phúc. Làm công dân tốt, trung thành với Tổ Quốc, biết đem đạo lý
Thầy (Đức Chí Tôn) truyền dạy tô điểm cuộc đời (đem Đạo vào đời) trong khả năng
của mình, đó là cách báo ân Thầy (Đức Cao Đài Thượng Đế).
6. Dâng lời nguyện thứ sáu, chúng ta hứa dứt bỏ tánh kiêu căng, ngạo mạn và lòng ham
muốn thấp hèn để chế ngự thức thần, giữ cho nguơn thần làm chủ lòng chúng ta.
Nếu mất quyền làm chủ trong tâm chúng ta thì nguơn thần không còn là ông
chủ (chủ nhơn ông 主人翁). Khi ấy thức thần soán quyền nguơn thần, lòng chúng ta luôn
luôn bị lục dục thất tình sai khiến. Kiêu ngạo (ngã mạn 我慢) là một trong những
nguy hại ghê gớm mà thức thần khiến chúng ta vướng mắc, phá tan công đức tu
hành của chúng ta. Vì thế, xưa nay các Đấng đều dạy chúng ta hãy rất khiêm tốn
(khiêm nhường, hạ mình). Chẳng hạn:
– Thời Nhị Kỳ Phổ Độ, trong Thư 1 Phê-rô (chương 5; câu 5), Thánh
Phê-rô khuyên: “Tất cả anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà
đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban
ơn cho kẻ khiêm nhường.”
– Thời Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn dạy:
“Các con coi bậc Chí Tôn như Thầy mà hạ
mình đặng độ rỗi nhơn sanh là thế nào. Phải xưng là một vị Tiên Ông và Bồ
Tát là hai phẩm chót của Tiên, Phật. Ðáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm
tối cao tối trọng, còn Thầy thì khiêm nhường là thế nào. Vì vậy mà nhiều
kẻ môn đệ cho Thầy là nhỏ. Cười . . .
Hạnh khiêm nhường là hạnh của
mỗi đứa con. Phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm
nhường sao cho bằng Thầy.” ([20])
7. Dâng lời nguyện thứ bảy, chúng ta hứa tu luyện cho đắc đạo (để có được “chân thân viên mãn”) ngõ hầu được phép
vào Bạch Ngọc Kinh lạy chầu Đức Chí Tôn.
Muốn có chơn thân toàn vẹn, chúng ta phải tu tịnh (tham thiền, công phu,
luyện đơn nấu thuốc) chớ không phải chỉ biết lo phổ độ. Bởi vậy, NĐCT 2022 (tr. 560) có lời Đức Chí Tôn khuyên chúng ta: “Luyện đơn nấu thuốc công phu / Long thăng, hổ
giáng, thập thu niên đài...” ([21])
8. Dâng lời nguyện thứ tám, chúng ta cầu xin rằng dưới quyền Đức Chí Tôn cai quản
khắp cả vũ trụ càn khôn, đạo Cao Đài được phát triển, mỗi ngày một lớn rộng.
Muốn Đạo Thầy được hoằng dương mạnh mẽ như vậy, chúng ta không thể phó thác
hết mọi việc cho Thầy làm. Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, Đức Khổng Tử dạy: “Con người có thể làm cho Đạo phát triển lớn
mạnh...” ([22]) Vì vậy, chúng ta hãy ra sức học đạo,
hiểu đạo, rồi dốc lòng cộng tác với Thầy hoằng dương đạo Cao Đài, đúng như điều
Thầy dạy chúng ta: “Thiên nhơn hợp nhứt. 天人合一.”
9. Dâng lời nguyện thứ chín, chúng ta cầu xin cho người thế gian khắp nơi đều một
lòng với nhau, không còn bụng phân biệt ta và người (vô kỷ vô tha 無己無他). Muốn được như vậy,
trước hết chính bản thân chúng ta hãy có lòng vô ngã 無我, không phân biệt ta
với người; đừng vì không cùng một Hội Thánh Cao Đài mà xem tín đồ, chức việc, chức
sắc thuộc Hội Thánh Cao Đài khác là “bàng
môn tả đạo” 旁門左道. Chúng ta cũng rán bỏ thói quen gọi các Hội Thánh hay tổ
chức Cao Đài là “chi phái” 支派, để tiêu trừ lòng tự tôn xem mình mới là “gốc cội” còn các chỗ khác chỉ là “nhánh nhóc”. Có như vậy mới mong đạo Cao Đài quy hiệp thành một (nhứt thể), chấm dứt rẽ chia, phân biệt.
10. Dâng lời nguyện thứ mười, chúng ta cầu xin cho khắp nơi trong nước mình cũng như
mọi quốc gia trên thế gian đều được hưởng thái bình, thạnh trị mãi mãi. Muốn
được như vậy, trước hết chính bản thân chúng ta cố giữ mình trong đạo đức, đừng
làm điều gì gây bất hòa, rối loạn trong gia đình mình, nơi mình đang làm việc,
đang tu học.
*
Tóm lại, cầu nguyện không phải là thụ động cầu xin tha lực 他力 (ban ơn hộ trì từ các Đấng thiêng
liêng), mà còn có tự lực 自力 (với ý chí và rán sức của
bản thân). Đó là ý nghĩa của Thiên nhơn hợp
nhứt (Trời và người hợp một).
Huệ Khải
([8]) Theo đạo Lão, Tam Thanh 三清 là ba cảnh 境 (cõi) mang tên Ngọc Thanh 玉清 (Nguyên Thủy Thiên Tôn 元始天尊 cai quản); Thượng Thanh 上清 (Linh Bửu Thiên Tôn 靈寶天尊 cai quản); và
Thái Thanh 太清 (Đạo Đức Thiên Tôn 道 德天尊
cai quản).
([18]) Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Cơ
Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 19-02 Bính Dần (Thứ Sáu 28-3-1986).
([19]) Minh Đức Tu Viện (Bãi Dâu, Vũng
Tàu), 06-7 Nhâm Tuất (Thứ Ba 24-8-1982). Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo
Việt Nam thông công.