KINH VĂN (a)
Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát, bá thiên vạn ức
Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn: Thử kinh đại
thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng
bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt
thân ly khổ nạn; tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn. Nam mô Phật lực oai, nam mô Phật lực
hộ, sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ. Hồi quang bồ tát, hồi thiện bồ
tát, a nậu đại thiên vương chánh điện bồ tát, ma kheo ma kheo, thanh tịnh tỳ
kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu. Chư đại
bồ tát, ngũ bá a la hán, cứu hộ đệ tử nhứt
thân ([1]) ly khổ nạn. Tự ngôn Quan Thế Âm, anh lạc bất tu giải, cần
độc thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành. Tức
thuyết chơn ngôn viết: Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni
đế, ni ha la đế, tì lê ni đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. [Đọc kinh ba lượt]
[Đọc ba lần]
KINH
VĂN (b)
南無大慈大悲廣大靈感觀世音菩薩
Nam mô đại từ đại bi quảng đại linh cảm Quan
Thế Âm Bồ tát.
南無救苦救難觀世音菩薩,百千萬億佛,
Nam mô cứu khổ
cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát, bá thiên vạn ức Phật,
恒河沙數佛,無量功德佛。佛告阿難言:
hằng hà sa số
Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn:
此經大聖,能救獄囚,能救重病,能救
Thử kinh đại
thánh, năng
cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu
三災百難苦。若有人誦得一千遍,
tam tai bá nạn
khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến,
一身離苦難;誦得一萬遍,合家離苦難。
nhứt thân ly
khổ nạn; tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.
南無佛力威,南無佛力護,使人無惡心,
Nam mô Phật lực
oai, nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm,
令人身得度。回光菩薩,回善菩薩,阿耨大
linh nhơn
thân đắc độ. Hồi quang bồ tát, hồi thiện bồ tát, a nậu đại
天王正殿菩薩,摩邱摩邱,清淨比邱,
thiên vương
chánh điện bồ tát, ma kheo ma kheo, thanh tịnh tỳ kheo,
官事得散,訟事得休。諸大菩薩,五百阿羅漢,
quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu. Chư
đại bồ tát, ngũ bá a la hán,
救護弟子一身離苦難。自言觀世音,
cứu hộ đệ tử nhứt thân ly khổ nạn. Tự ngôn Quan Thế Âm,
纓絡不須解,勤讀千萬遍,災難自然得
anh lạc bất tu giải, cần độc thiên vạn biến, tai nạn tự
nhiên đắc
解脫,信受奉行。即說真言曰:
giải thoát, tín thọ phụng
hành. Tức thuyết chơn ngôn viết:
金婆金婆帝,求訶求訶帝,陀羅尼帝,尼訶羅帝,
Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha la
đế,
毘黎你帝, 摩訶伽帝,真陵乾帝,莎婆訶.
tì lê ni [nễ] đế,
ma ha già đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha.
南無高臺仙翁大菩薩摩訶薩.
CHÚ
GIẢI
1. Nam
mô đại từ đại bi quảng đại linh cảm Quan Thế Âm Bồ tát.
Câu này
gần giống với câu trong Bạch y
Quan Thế Âm Đại sĩ linh cảm thần chú 白衣觀世音大士靈感神咒 (gọi tắt là Bạch y thần chú 白衣神咒): Nam mô đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn quảng
đại linh cảm Bạch y Quan Thế Âm Bồ tát.
Nam mô 南無 (Namah): Quy y, vâng theo, cung kính noi theo.
Đại từ 大慈: Rất hiền, rất
lành.
Đại bi 大悲 (mahākaruṇā): Rất thương xót.
Quảng đại 廣大: Rộng lượng.
Linh cảm 靈感: Cảm ứng. (Linh là ứng nghiệm. Cảm là xúc động đến.) Con người chí thành cầu khẩn Bồ tát Quan Âm
thì cảm đến Ngài, và Ngài đáp ứng lại lòng thành cầu khẩn đó. Như vậy gọi là
linh cảm, cảm ứng.
Thế Âm 世音: Âm thanh của thế
gian, tiếng kêu của người trần thế.
Bồ tát 菩薩: Nói đầy đủ là Bồ đề tát đóa 菩提薩埵 (Bodhisattva), dịch nghĩa
là Ðại sĩ 大士. Bồ tát là bậc hành giả tuy đã đắc quả Phật nhưng lập đại
nguyện không nhập niết bàn vì còn vào đời cứu độ chúng sinh đang trầm luân,
chưa giác ngộ. Bồ tát sẵn sàng nhận lãnh tất cả mọi đau khổ của chúng sinh…
Quan Thế Âm Bồ tát 觀世音菩薩 (Avalokiteśvara): Vị bồ tát lắng nghe mọi tiếng thế gian. Cũng gọi Quan Âm
Bồ tát, Quan Âm Đại sĩ.
* Câu 1 ý nói: Xin vâng theo Đức Bồ tát Quan Thế Âm đại từ,
đại bi, quảng đại, linh cảm.
2. Nam mô
cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật,
vô lượng công đức Phật.
Cứu khổ cứu nạn Quan Thế
Âm Bồ tát 救苦救難 觀世音菩薩: Bồ tát
Quan Thế Âm cứu khổ cứu nạn
Bá thiên vạn ức Phật 百千萬億佛: Trăm, ngàn, mười ngàn, trăm ngàn vị Phật. Nên
hiểu là vô số Phật.
Hằng hà sa số Phật 恆(恒)河沙數佛: Các vị Phật nhiều như số cát sông Hằng (the
Ganges) ở Ấn Độ. Nên hiểu là vô số Phật.
Vô lượng 無量: Không thể đo lường
được.
Công đức 功德: Công lao và ơn
đức. Lưu ý: Không nên hiểu là ơn
đức chung cho mọi người vì chữ công 公 là chung cho mọi người (public) viết khác chữ
công 功 là công lao.
Vô lượng công đức Phật 無量功德佛: [Các] vị Phật có công đức lớn đến mức không
thể đo lường được.
* Câu 2 ý nói: Xin vâng theo Đức Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ
cứu nạn, vô số Phật, các vị Phật có công đức lớn đến mức không thể đo lường
được.
3. Phật cáo A Nan ngôn: Thử kinh đại thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh,
năng cứu tam tai bá nạn khổ.
Cáo 吿:
Bảo, nói cho biết.
A Nan: Nói đầy đủ là A Nan Đà 阿難陀 (Ānanda). Cùng họ
với Phật Thích Ca Mâu Ni, là em con chú. Gia nhập giáo hội sau khi giáo hội
thành lập hai năm. Trở thành người hầu cận (thị giả) của Phật. Nhớ hết những lời
Phật dạy. Là vị thứ hai (Ða
văn đệ nhất − Nghe kinh nhiều nhất) trong mười đại đệ tử của Phật.
Là người xây dựng giáo pháp cơ bản trong lần kết tập kinh thứ nhất, và là Nhị tổ
của Thiền tông Ấn Ðộ. Lần kết tập thứ nhất được tổ chức tại
thành Vương Xá 王舍 (Rājagṛha)
ngay sau khi Phật diệt độ (khoảng năm 408 trước Công nguyên), có 500 tỳ kheo 比丘 (bhikṣu) đã chứng quả a la hán tham dự. Vị triệu
tập đại hội này là Ma Ha Ca Diếp 摩訶迦葉
(Mahākāśyapa, Nhất tổ Thiền tông Ấn Độ, vị thứ nhất trong mười đại đệ
tử, là Ðầu đà đệ nhất −
khổ hạnh hơn hết thảy). Ca Diếp mời Ưu Ba Li 優波離 (Upāli, vị thứ chín trong mười đại đệ tử, là Giới luật đệ nhất − giỏi
giới luật hơn hết thảy) đọc lại giới luật; và mời A Nan đọc lại các kinh. Do
đó, hầu hết kinh Phật đều mở đầu với công thức Như thị ngã văn 如是我聞 (Tôi nghe như vầy). Nhờ công đức của Ưu Ba Li mà Luật
tạng 律藏 (Vinaya-piṭaka) thành hình. Nhờ công đức của A Nan
mà Kinh tạng 經藏 (Sūtra-piṭaka) thành hình. Kinh và Luật
tạng là hai trong ba tạng kinh nhà Phật. Tạng thứ ba là Luận tạng 論藏 (Abhidharma-piṭaka).
Ngôn 言:
Rằng.
Phật cáo A Nan ngôn 佛吿阿 難言: Phật bảo A Nan
rằng.
Thử kinh đại thánh 此經大聖: Kinh này rất
linh ứng, rất mầu nhiệm. (Đừng hiểu lầm đại
thánh là vị thánh lớn.)
Năng cứu
能救 : Có thể cứu được.
Ngục tù 獄囚: Cảnh tù ngục, giam cầm.
Trọng bịnh 重病: Bệnh nặng.
Tam tai 三災: Ba tai họa lớn là hỏa tai (như cháy
nhà), thủy tai (như lũ lụt), phong tai (như bão tố).
Bá nạn khổ 百難苦:
Trăm điều đau khổ, nạn tai. Nên hiểu là vô số khổ nạn. Lưu ý: Nói tam tai bá nạn thì không hợp lý. Lẽ ra phải nói tam
tai bát nạn. Bát nạn 八難 là tám hoàn cảnh chướng ngại. Ai sinh
vào tám hoàn cảnh này thì rất khó có duyên lành tu học: (1) Sanh vào cõi địa
ngục; (2) Sanh làm ngạ quỷ hay quỷ đói; (3) Sanh làm súc sanh; (4) Sanh ở cõi
quá sung sướng nên ham hưởng thụ, không biết lo tu hành; (5) Sanh vào cõi trời
Vô tưởng thiên 無想天 (là nơi không có tư tưởng) nên không tu học được; (6)
Sanh bị khuyết tật là mù, điếc, câm, ngọng; (7) Sanh làm người thế trí biện
thông (nên ỷ mình thông minh, giỏi biện bác theo thế sự mà không lo tu học);
(8) Sanh trước khi Phật ra đời và và sanh sau khi Phật đã tịch diệt, do đó khó
có cơ hội theo học chánh pháp. Một số bản kinh của Phật giáo (xem phần khảo về dị
bản, tr. 23-26) thường viết là thiên tai bá nạn 千災百難 (ngàn tai trăm nạn)
hợp lý hơn, có nghĩa là vô số tai nạn. Do đó, khi có thể được, bản kinh Cao Đài
nên sửa lại là thiên tai bá nạn.
* Câu 3 ý nói: Phật bảo A Nan rằng kinh này rất
mầu nhiệm, có thể cứu người thoát khỏi cảnh ngục tù, có thể cứu người thoát
khỏi trọng bịnh, có thể cứu người thoát khỏi ba tai ách (lửa cháy, nước lụt,
bão tố) và vô số tai nạn, đau khổ.
4. Nhược hữu
nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn; tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp
gia ly khổ nạn.
Nhược hữu nhơn tụng đắc 若有人誦得: Nếu
có người tụng được.
Nhứt thiên biến 一千遍: Một ngàn lượt. Lưu ý: Ðọc trọn bài kinh hay
quyển kinh suốt từ đầu tới cuối gọi là một
biến.
Nhứt thân
一身: Một tấm thân, bản thân người tụng kinh.
Ly khổ nạn 離苦難: Lìa xa nạn tai, đau khổ.
Hiệp
gia 合家: Cùng tất cả những người trong nhà của người tụng
kinh.
* Câu
4 ý nói: Nếu có người tụng kinh này được một ngàn lượt thì bản
thân người ấy thoát khỏi đau khổ và tai nạn; tụng được mười ngàn lượt thì người
ấy cùng với những người trong nhà đều thoát khỏi đau khổ và tai nạn.
5. Nam mô Phật
lực oai, nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ.
Phật lực oai
佛力威: Sự uy nghiêm của sức Phật. (Lẽ ra đọc là uy, nhưng giọng miền Nam quen đọc là oai.)
Phật lực hộ 佛力護: Sự giúp đỡ từ sức của Phật.
Vô ác tâm
無惡心: Không có lòng dạ ác độc.
Linh (lịnh)
令: Khiến, xui. Thí dụ: Linh nhân khởi kính 令人起敬 (khiến cho người ta nảy sinh lòng kính
trọng); sử linh 使令 (sai
khiến).
Linh nhơn
令人: Khiến cho người ta. (Cùng nghĩa với sử nhơn.)
Thân đắc độ 身得度(渡):
Tấm thân của họ được đưa khỏi bến mê sang bờ giác.
* Câu
5 ý nói: Xin nương theo oai lực Phật, xin nương nhờ sức cứu
giúp của Phật, xin khiến cho con người không có lòng ác, xin khiến cho con
người được cứu độ.
6. Hồi quang bồ tát, hồi
thiện bồ tát, a nậu đại thiên vương, chánh điện bồ tát, ma kheo ma kheo, thanh
tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu.
Hồi 回: Trở
về.
Hồi quang
回光: Trở về với sự sáng. Nói tắt của Hồi quang phản chiếu 回光反照: Soi xét bản thân để nhận ra lỗi lầm mà
sửa chữa.
Hồi quang bồ tát 回光菩薩: Người tu đại
thừa biết trở về với lẽ sáng, biết soi xét bản thân, từ bỏ chỗ tăm tối sai lầm.
Hồi thiện
回善: Trở về với điều lành.
Hồi thiện bồ tát 回善菩薩: Người tu đại thừa biết trở về với điều thiện, bỏ
điều ác.
A nậu 阿耨: Nói
đầy đủ là a nậu đa la (anouttara): A là vô; nậu đa la là
thượng. A nậu đa la là vô
thượng, cao hơn hết.
Thiên vương 天王 (devarāja):
Các vị tướng cõi trời bảo vệ chánh pháp và những nơi truyền bá chánh pháp.
A nậu đại thiên vương: Các vị đại thiên vương cao tột.
Chánh
điện 正殿: Nơi
có bàn thờ Phật, Trời cho đông người cúng lạy.
Chánh điện bồ tát 正殿菩薩: Người
tu đại thừa biết tôn kính và giữ gìn nơi thờ tự.
Ma kheo 摩丘(邱): Có lẽ là nói tắt từ ma
ha tỳ kheo 摩訶比丘 (đại tỳ kheo).
Tỳ kheo (khưu) 比丘 (bhikṣu):
Nhà sư nam giữ 250 giới. Nhà sư nữ giữ
348 giới gọi là tỳ kheo ni 比丘尼 (bhikṣunī).
Thanh 清: Trong trẻo.
Tịnh 净: Sạch.
Thanh
tịnh tỳ kheo 清净比丘:
Người tu đại thừa giữ gìn giới hạnh đầy đủ nên gọi là bậc tỳ kheo trong sạch.
Tụng
sự 訟事:
Việc thưa kiện, kiện cáo ở tòa án.
* Câu 6 ý nói: Người
tu đại thừa biết soi xét bản thân mà từ bỏ chỗ tăm tối sai lầm, người tu đại
thừa biết trở về với điều thiện, người tu đại thừa giống như các bậc đại thiên
vương cao tột biết bảo trọng chánh pháp và nơi tôn nghiêm thờ tự, người tu đại
thừa biết giữ gìn trọn vẹn các quy giới và nhờ thế mà đức hạnh trong sạch, [tất
cả các vị ấy] đều khỏi vướng mắc vào những việc kiện thưa, tranh chấp.
7. Chư đại bồ tát, ngũ bá
a la hớn, cứu hộ đệ tử nhứt thân ly khổ nạn.
Đại bồ tát 大菩薩 (Mahābodhisattva):
Cũng gọi là Bồ tát Ma ha tát, Đại bồ tát Ma ha tát (Mahābodhisattva Mahāsattva).
A la hớn 阿羅漢 (arhat): Gọi
tắt là la hán (hớn). Bậc thánh không
còn phải luân hồi sanh tử, không còn sai lầm, không còn bị trói buộc vì những
ràng buộc thế gian như ngu dốt (vô minh), phiền não, tham sân si, kiêu ngạo, chấp
trước, v.v…
Ngũ bá a
la hớn 五百阿羅漢: Năm trăm vị la hán. (Xem lại chú giải về A Nan, kỳ kết
tập kinh lần thứ nhất.)
Cứu hộ 救護: Cứu và che chở.
Đệ tử 弟子: Kẻ học
trò, người học đạo, tín đồ.
Nhứt thân 一身: Một tấm thân, bản
thân người tụng kinh.
Ly khổ nạn 離苦難: Lìa xa nạn tai, đau khổ.
* Câu 7 ý nói: Cầu xin các vị đại bồ tát và năm trăm a la
hớn hãy cứu giúp một thân này của đệ tử được thoát khỏi đau khổ và tai nạn.
8. Tự ngôn
Quan Thế Âm, anh lạc bất tu giải, cần độc thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên đắc
giải thoát, tín thọ phụng hành.
Tự 自: Chính mình, tự mình.
Tự ngôn
Quan Thế Âm 自言觀世音: Chính mình niệm hồng danh hay chơn ngôn
(thần chú) Ðức Quan Thế Âm Bồ tát.
Anh lạc 纓絡 (cũng viết là 瓔珞): Anh 纓 là lèo mũ,
giải mũ, dây lưng bằng tơ cuộn lại. Lạc 絡 là các dây thần kinh và mạch máu chạy ngang
thân thể, các thớ xoắn xít trong trái cây. Từ điển Mathews’
Chinese-English dictionary (Thượng Hải 1931), mục từ 7463 giảng 纓絡 là “fringes”.
Theo Oxford advanced learner’s dictionary,
7th edition (CD-ROM), thì fringe là “a strip of hanging threads attached to the
edge of something to decorate it”, tức là các loại dây tua trang trí để viền
thảm hay khăn, màn, v.v...
Nếu chọn dị bản, viết anh
lạc là 瓔珞, thì có nghĩa
là Chuỗi ngọc quý. Trong A dictionary of
Chinese Buddhist terms, (Đài Bắc: Phật giáo Văn hóa Phục vụ xứ, 1962),
William Edward Soothill và Lewis Hodous giảng: “A necklace of precious stones; things strung
together.”
Dưới đây sẽ căn cứ theo cả
hai cách viết anh lạc (纓絡 và 瓔珞) và gộp chung hai nghĩa để giảng giải câu kinh này.
Tu 須: Nên. Tiếng Việt cổ đọc trại ra là tua. Thánh giáo Cao Đài hay gặp chữ tua này. Thí dụ: Tua gắng sức (Nên cố gắng).
Bất tu 不須: Không nên (cùng nghĩa với vô tu 無須).
Bất tu giải 不須解: Không nên
giải thích; không nên tháo ra.
Anh lạc bất tu giải: Không nên gỡ tháo dây tơ cuộn xoắn xít vào nhau hay
các viên ngọc đã xâu thành chuỗi (vì tháo ra sẽ làm nó hỏng); tức là không nên
giải thích, phân tách.
Cần 勤: Siêng năng, chăm
chỉ.
Độc 讀: Đọc, tụng.
Thiên vạn biến 千萬遍: Ngàn
vạn (1.000 x 10.000) lần. Nên hiểu là vô số lần, tức là tụng kinh hoài.
Tai nạn tự nhiên đắc giải thoát 災難自然得解脫: Tự nhiên được giải thoát khỏi các tai nạn.
Thọ 受: Nhận
lãnh.
Phụng 奉: Kính vâng lời.
Hành 行: Thi hành, làm.
Nhiều quyển kinh Phật kết
thúc bằng công thức Tín thọ phụng hành.
Thí dụ, Kinh Kim cang kết thúc như
sau: Văn Phật sở thuyết, giai đại hoan
hỷ, tín thọ phụng hành. 聞佛所說,皆大歡喜, 信受奉行. (Nghe Phật thuyết kinh rồi, tất cả đều rất vui vẻ, tin
chịu và vâng lời làm theo.)
* Câu 8 ý nói: Tự mình niệm hồng danh hay đọc thần chú của Đức
Bồ tát Quan Thế Âm, thì không nên giải thích, cứ siêng chăm tụng kinh mãi thì
tự nhiên sẽ được giải thoát khỏi mọi tai nạn, hãy tin tưởng nhận lãnh và vâng
lời làm theo [lời dạy này].
9. Tức thuyết chơn ngôn viết: Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni
đế, ni ha la đế, tì lê ni đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha.
Tức 即: Tức thì, ngay lập tức.
Thuyết 說: Nói.
Chơn ngôn 真言: Thần chú, cũng gọi là đà la ni 陀羅呢 (dhāraṇī). Thường dùng để kết thúc bài kinh hay quyển
kinh.
Viết 曰: Rằng.
Tức thuyết chơn ngôn viết 即說真言曰: Liền
đọc thần chú rằng.
Tì 毘: Còn đọc là bì.
Ni 你: Còn đọc là nễ.
Ta bà ha 娑(莎)娑婆訶 (Svāhā): Thành tựu, tốt lành, tiêu tai tăng phước,
kính Phật chứng minh. Ta bà ha thường
đặt cuối những câu thần chú (chơn ngôn). Có lẽ cũng tương tự như ở Thiên Chúa
giáo, kết thúc lời cầu nguyện là chữ Amen
(tiếng Hebrew), có nghĩa khẳng định là: Quả như vậy; Xin nguyện được đúng như
vậy (So it be; Let it be; Truly; Verily).
Chơn ngôn (thần chú, đà
la ni) là mật ngữ. Khi đọc chơn ngôn, âm thanh phát ra đúng cách sẽ mang đến
hiệu quả mầu nhiệm. Có thể xem chơn ngôn là mật khẩu (password) để tiếp xúc với
cõi thiêng liêng. Do đó không dịch nghĩa câu thần chú.
* Câu 9 ý nói: Lập tức đọc thần chú rằng: Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni
đế, ni ha la đế, tì lê ni đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha.
DỊCH NGHĨA BÀI KINH
Xin vâng theo Đức Bồ tát Quan Thế Âm đại từ,
đại bi, quảng đại, linh cảm.
Xin vâng theo Đức Bồ tát Quan Thế Âm cứu khổ cứu
nạn, vô số Phật, các vị Phật có công đức lớn đến mức không thể đo lường được. Phật
bảo A Nan rằng kinh này rất mầu nhiệm, có thể cứu người thoát khỏi cảnh ngục
tù, có thể cứu người thoát khỏi trọng bịnh, có thể cứu người thoát khỏi ba
tai ách (lửa cháy, nước lụt, bão tố) và vô số tai nạn, đau khổ.([3]) Nếu có
người tụng kinh này được một ngàn lượt thì bản thân người ấy thoát khỏi đau khổ
và tai nạn; tụng được mười ngàn lượt thì người ấy cùng với những người trong
nhà đều thoát khỏi đau khổ và tai nạn.
Xin nương theo oai lực Phật, xin nương
nhờ sức cứu giúp của Phật, xin khiến cho con người không có lòng ác, xin khiến
cho con người được cứu độ. Người tu
đại thừa biết soi xét bản thân mà từ bỏ chỗ tăm tối sai lầm, người tu đại thừa
biết trở về với điều thiện, người tu đại thừa giống như các bậc đại thiên vương
cao tột biết bảo trọng chánh pháp và giữ gìn nơi tôn nghiêm thờ tự, người tu
đại thừa biết giữ gìn trọn vẹn các quy giới và nhờ thế mà đức hạnh trong sạch,
[tất cả các vị ấy] đều khỏi vướng mắc vào những việc kiện thưa, tranh chấp.
Cầu xin các vị đại bồ tát và năm trăm a
la hớn hãy cứu giúp một thân này của đệ tử được thoát khỏi đau khổ và tai nạn.
Tự mình niệm hồng danh hay thần chú Đức Bồ tát Quan Thế Âm nhưng không nên giải
thích, và cứ siêng chăm tụng đọc mãi, thì tự nhiên sẽ được giải thoát khỏi mọi
tai nạn, hãy tin tưởng nhận lãnh và vâng lời làm theo lời dạy này. Lập tức đọc thần chú rằng: Kim bà kim bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni
đế, ni ha la đế, tì lê ni đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha.
Nam mô
Cao Đài Tiên ông Đại bồ tát Ma ha tát.
CHỦ ĐỀ TƯ TƯỞNG CỦA BÀI KINH
Bài kinh
này nên hiểu và hành theo lẽ Thiên nhân
hiệp nhất 天人合一
(Trời hay Thiêng liêng và con người hòa làm một).
Về phần Thiên là cầu xin tha lực 他力, tức là
trông cậy và nương nhờ vào thần thông và đức từ bi của Bồ tát Quan Thế Âm.
Về phần nhân là phải dùng tự lực 自力, tức là
chính bản thân mình phải hành động, phải sống ra sao để xứng đáng đón nhận ân
phước cứu độ của Đức Bồ tát.
Nếu một
người không biết làm lành lánh dữ, không biết giữ gìn quy giới, không biết tôn
trọng và bảo vệ chánh pháp, sống buông lung sa đọa, vi phạm pháp luật, v.v… thì
người đó ắt mắc phải tội lỗi, tự chuốc cho mình những bệnh ngặt nghèo, bị tai
họa, bị thưa kiện, bị giam cầm. Lúc đó có tha thiết khẩn cầu, van xin Đức Bồ
tát, thì dù đại từ, đại bi, quyền năng vô hạn, Bồ tát cũng đành ứa lệ xuôi tay nhìn
con người phải trả cái quả xấu do chính con người đã tự gieo nhân xấu. Ngài cũng
như các Đấng không thể can thiệp làm mất luật công bình của trời đất. Đức Quan
Âm Bồ tát dạy rõ:
“Tình thương bao la của Đấng Chí tôn và lòng
từ bi bao khắp của hàng chư Phật cũng không thể giải thoát giùm cho chư hiền
những nhân quả chằng chịt ấy đâu. (…) Những gì con người hành động, những gì
con người khổ đau, những gì con người than trách thuộc ngoài phạm vi đạo lý thì
chính con người chịu lấy, chớ Phật Trời nào bênh vực để trái luật công bình,
mặc dầu vẫn thông cảm những trạng thái của con người.” ([4])
Trái
lại, một người tu chân chánh, tuân thủ giới luật, giữ gìn vẹn tròn tâm hạnh đại
thừa (xứng đáng được gọi là bồ tát hữu hình ở thế gian), thì luôn luôn được chư
thần thánh, tiên phật âm thầm bảo vệ, giúp đỡ. Dầu người ấy có vướng mắc tai
nạn, bệnh hoạn do phải trả nghiệp cũ kiếp trước, cũng sẽ được các đấng ban ơn
cứu độ để tiếp tục tu hành cho tới ngày thành tựu.
Nếu một
người biết làm lành lánh dữ, biết giữ gìn quy giới, biết tôn trọng và bảo vệ
chánh pháp, biết sống lành mạnh và đạo đức, biết tôn trọng pháp luật, v.v… thì
người đó không mắc phải tội lỗi, không tự chuốc những bệnh ngặt nghèo, cũng
không bị người khác thưa kiện, giam cầm. Thế thì, dù không cầu Bồ tát Quan Âm
cứu khổ cứu nạn, đương nhiên đã không bị khổ nạn rồi. Do đó trong kinh có đoạn
như sau: Hồi quang bồ tát, hồi thiện bồ
tát, a nậu đại thiên vương chánh điện bồ tát, ma kheo ma kheo, thanh tịnh tỳ
kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu. (Người tu đại thừa biết biết soi
xét bản thân mà từ bỏ chỗ tăm tối sai lầm, người tu đại thừa biết trở về với
điều thiện, người tu đại thừa giống như các bậc đại thiên vương cao tột biết
bảo trọng chánh pháp và giữ gìn nơi tôn nghiêm thờ tự, người tu đại thừa biết
giữ gìn trọn vẹn các quy giới và nhờ thế mà đức hạnh trong sạch, [tất cả các vị
ấy] đều khỏi vướng mắc vào những việc kiện thưa, tranh chấp.) Nói cách khác,
hãy hiểu bồ tát trong đoạn kinh này
là chính mình, là người tu gương mẫu.([5])
Thông thường bản tính con người là mau quên, không kiên
trì rèn tập tâm tánh (luyện kỷ, lập đức, lập hạnh). Vì thế con người cần phải
thường xuyên và lâu dài tự nhắc nhở mình phải lập hạnh, lập đức, luyện kỷ. Tự
nhắc nhở bằng cách tụng kinh để nhớ hoài lời dạy hành thiện. Do đó trong kinh lặp
đi lặp lại những câu như: tụng đắc nhứt
thiên biến, tụng đắc nhứt vạn biến, cần độc thiên vạn biến. Nên hiểu là
tụng hoài, tụng mãi, tụng suốt đời để tự nhắc nhở mình hãy luôn luôn cố gắng
sống đúng theo lời Phật dạy.
Trái lại, chỉ biết tụng cho đủ con số quy định, miệng đọc
kinh ra rả như cái máy vô hồn mà lòng tà vạy trước sau vẫn không chịu sửa đổi
thì chắc chắn không bao giờ có Bồ tát Quan Âm nào cảm ứng cứu giúp.
NGUỒN GỐC BÀI KINH CỨU KHỔ
Trong
khóa tu Thu phân Mậu Tý (tháng 9-2008) tại Cơ quan Phổ thông Giáo lý, một hôm tôi
đang đứng bên cạnh hiền hữu Huệ Khai (Đào Thiên Niên) chờ vào cúng thời Ngọ,
thì hiền huynh Chí Kiên (Võ Văn Liêm) nhẹ bước tới bên cạnh, nói nhỏ vào tai,
cho biết rằng hiền huynh từng có hai bản giải nghĩa kinh Cứu khổ do tiền bối
Lâm Xương Quang (cũng gọi Lâm Đạo Nguơn) soạn.
Tôi nhớ
ngay: Lâm tiền bối tu đến bậc Lão sư, trong gia đình là con thứ tám, cho nên
còn được gọi là ông Lão Tám. Đây là dịch giả nhiều kinh sách nổi tiếng, như Thất chơn nhơn quả 七真因果. Những năm cuối thập niên 1920 tiền bối tu ở
Phổ Đức Phật đường 普德佛堂
(chùa Minh Sư được gọi là Phật đường),
ở làng Thanh Phú Long, tổng Thanh Mục Hạ, tỉnh Tân An.([6]) Thế là tôi kết luận: Vậy kinh Cứu khổ trong
Cao Đài có nguồn gốc từ đạo Minh Sư.
Năm
ngoái, tôi tình cờ biết hiền hữu Huệ Khai xuất thân trong gia đình gốc Minh Sư.
Riêng bản thân hiền hữu còn có được một mối tình cảm rất quý trọng mà các bậc
tôn túc bên Minh Sư luôn dành cho. Do đó, tôi quay sang Huệ Khai, cậy hiền hữu
khi mãn khóa tu Thu phân, về nhà hãy hỏi các vị bên Minh Sư mượn giúp tôi bản
chữ Hán kinh Cứu khổ.
Tôi chưa
kịp dứt lời, hiền hữu nói gọn lỏn: “Nhà em có!”
Thì ra vài
năm trước đây một vị ở Minh Sư đã tặng Huệ Khai một tấm ván khắc kinh (tức là bản 板). Huệ Khai đang giữ ở nhà. Tôi mừng quá, thầm tạ ơn Đức
Quan Âm Bồ tát, vì mới tuần trước, khi chú giải kinh Cứu khổ, tôi phân vân không
biết trong câu Tự ngôn Quan Thế Âm anh
lạc bất tu giải thì hai chữ anh lạc viết
chữ Hán ra sao, nên không giảng được nghĩa, và tôi đã cầu nguyện xin Đức Bồ tát
linh ứng trợ duyên cho đệ tử tìm ra bản gốc chữ Hán.
Mãn khóa
tu, hiền hữu Huệ Khai về nhà, xoa mực tàu lên bản khắc gỗ, in tặng tôi bản kinh
gốc. Tôi thật vô vàn cảm kích. (Huệ Khai 慧開 và Huệ Khải慧啟 tôi cùng thọ ơn Đức Tôn sư Đông Phương Lão tổ
ban thánh danh chung một đợt.)
Có được
bản chữ Hán này, tôi xác định anh lạc viết
là 纓絡. Muốn tìm kiếm thêm các cách giảng nghĩa của
người xưa, bèn gõ hai chữ 纓絡 để tìm kiếm trên Internet. Chẳng những
tìm ra một cách viết khác của hai chữ anh
lạc là 瓔珞, mà lại thấy
thêm khá nhiều dị bản chữ Hán của bài kinh này trong kho tàng kinh văn Phật
giáo.
Từ những
kết quả ấy, tôi trộm nghĩ rằng bài kinh Cứu khổ hiện hành trong đạo Cao Đài vốn
mượn từ kinh tụng của đạo Minh Sư. Nhưng bài kinh này cũng rất phổ biến trong kinh
văn Hán tạng của đạo Phật, với không ít dị bản.
MÔ TẢ BẢN KINH CỨU KHỔ CỦA MINH SƯ
Bản in khắc
ván mà hiền hữu Huệ Khai tặng tôi gồm hai trang. Cả hai ghép lại chỉ nhỉnh hơn
khổ A4 thông dụng.
Trang
phải vẽ hình Bồ tát Quan Âm ngồi tòa sen bên rừng trúc. Cạnh
đó, góc trái tranh, vẽ chim anh vũ (chim két?) ngậm chuỗi ngọc (một số sách gọi
là chuỗi anh lạc).
Hàng trên tranh vẽ là sáu chữ Hán nằm
ngang (đọc từ phải sang trái): Cao vương
Quan Âm Bồ tát 高王觀音菩薩.
Trang bên
trái gồm một dòng nhan đề và mười dòng kinh văn viết xuôi xuống, đọc từ phải
sang trái. Trừ dòng nhan đề, dòng 1, dòng 7, và dòng 10, tám dòng còn lại mỗi
dòng có 21 chữ Hán. Dòng 7 chỉ có 20 chữ, vì khi khắc chữ thứ 18 thì bỏ trống một
ô thứ 19, khắc hai chữ Quán Thế lùi
xuống (thay cho phép viết đài 抬).
Dòng 1 là nhan đề: Nam mô đại từ đại bi Quán Thế Âm cứu khổ chân
kinh 南無大慈大悲觀世音救苦真經. (Khi
dùng trong đạo Cao Đài, nhan đề này không còn, và thay bằng câu chú Nam mô đại từ đại bi quảng đại linh cảm Quan
Thế Âm Bồ tát. Câu chú 15 chữ này cũng không thấy dùng làm
nhan đề trong một số dị bản kinh Cứu khổ của Phật giáo, như tìm thấy trên
Internet.)
Dòng 1 và dòng 2 đều viết trồi đầu cao
hơn các dòng còn lại một chữ. Đây là phép đài
trong Hán văn, để tỏ ý tôn kính. Nếu tỏ ý tôn kính nhiều hơn (như khắc hồng
danh Thượng đế) thì phải đài cao hơn hai chữ. (Ngày xưa học trò đi thi, viết bài văn chữ Hán không đúng phép đài là phạm trường quy. Không đáng đài
mà lại đài, hay ngược lại quên đài chỗ phải đài, hoặc đài không hợp cách thì bị
đánh hỏng.)
Từ dòng
2 trở đi thì giống như bản kinh hiện hành trong đạo Cao Đài. Toàn bài kinh
không có một dấu chấm câu nào. Cũng không có các dấu khuyên ○ bên cạnh những chữ phải gõ chuông báo hiệu cho tín đồ cúi đầu hay cúi
lạy khi tụng kinh đến chữ đó.
DỊ BẢN KINH CỨU KHỔ
A.
Trong số các bản kinh có khá nhiều chỗ khác xa với bản của Minh Sư hay Cao Đài.
Sau đây là một bản tiêu biểu, tìm thấy tại: http://www.geocities.com/directx_user/sutra/av_sutra.htm.
Các chữ không giống thì được in xiên. Chỗ nào “thiếu” chữ thì ghi dấu
[*]. Chỗ các chữ không đúng thứ tự với bản của Minh Sư hay Cao Đài thì ghi dấu
[+].
南無救苦難觀世音菩薩,百千萬億佛,
Nam mô cứu
khổ [*] nạn Quan Thế Âm Bồ tát,
bá thiên vạn ức Phật,
恒河沙數佛,無量功德佛,
hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật,
南無釋迦牟尼佛,佛告阿難言,
nam
mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Phật
cáo A Nan ngôn,
此經大乘,能救獄囚,能救重病,能救
thử kinh đại thừa, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu
百難苦,若誦此經者,得離一切苦,
[*] bá nạn khổ, nhược tụng thử kinh giả, đắc ly
nhứt thiết khổ,
若誦一千遍,一身離苦難,
nhược
tụng nhứt thiên biến, nhứt
thân ly khổ nạn,
若誦一萬遍,合家離苦難,南無佛力威,
nhược
tụng nhứt vạn biến, hiệp gia
ly khổ nạn, nam mô Phật lực oai,
南無佛力護,使人無惡心,令人身得度,
nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác
tâm, linh nhơn thân đắc độ,
迴光菩薩,迴善菩薩,阿育大天王,
hồi quang bồ tát, hồi thiện bồ tát, A Dục đại thiên vương,
正大菩薩,五百大阿羅漢,救護弟子,
chánh điện bồ tát, [+] ngũ bá đại a la hán,
cứu hộ đệ tử,
身得離諸苦難,摩休摩休,清淨比丘,
thân
đắc ly chư khổ nạn, ma hưu ma hưu, thanh tịnh tỳ kheo,
官事得散,私事得休,瓔珞不須解,
quan sự đắc tán, tư sự đắc hưu, [*] anh lạc bất tu giải,
勤念此經者,自然得解脫。
cần niệm
thử kinh giả, [*] tự nhiên đắc giải thoát.
南無救苦救難觀世音菩薩,
Nam
mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ tát,
歡喜信受奉行。真言曰:「娑婆離婆帝,
hoan
hỷ tín thọ phụng hành. [*] Chơn ngôn
viết: “Ta bà ly bà đế,
救阿救阿帝,陀羅尼帝,尼阿囉帝,揭帝羅尼帝,
cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha la đế, yết đế la ni đế,
菩薩娑婆訶。」
bồ tát ta bà ha.”
Ghi chú: Trong
bản trên, hai chữ tụng sự 訟事 khắc lầm thành tư
sự 私事, vì tụng 訟 và tư 私 gần giống nhau.
B. Sau đây là bản kinh Cứu khổ chỉ có dăm ba chỗ khác so
với bản Minh Sư hay Cao Đài, tìm được từ hai địa chỉ sau:
CBETA: Chinese Buddhist Electronic Text
Association 中華電子佛典協會 / Trung Hoa Điện tử Phật điển Hiệp hội),
http://www.cbeta.org.
EBS: Electronic Buddhadharma Society 美國佛教會電腦 資訊庫功德會(資功會)/
Mỹ quốc Phật giáo hội Điện não Tư tấn khố Công đức hội (Tư công hội), http://www.baus-ebs.org.
Mười một chỗ khác nhau được đánh số từ [1] đến
[11].
觀世音菩薩救苦經
Quan Thế Âm Bồ tát cứu khổ kinh
南無救苦觀世音菩薩,百千萬億佛,
Nam mô cứu khổ
[1] Quan Thế Âm Bồ tát, bá thiên vạn ức Phật,
恒河沙數佛,無量功德佛。佛告阿難言:
hằng hà sa số
Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo
A Nan ngôn:
此經大聖,能救獄囚,能救重病,能救
Thử kinh đại thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu
千災百難苦。若有人誦得一千遍,
thiên [2] tai bá nạn khổ. Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt
thiên biến,
一身離苦難;誦得一萬遍,合家離苦難。
nhứt thân ly
khổ nạn; tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.
南無佛力威,南無佛力護,使人無惡心,
Nam mô Phật lực
oai, nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm,
令人身得度。回光菩薩,回善菩薩,阿耨大
linh nhơn thân đắc độ. Hồi quang bồ tát, hồi thiện bồ tát,
a nậu đại
天王,正殿菩薩,摩邱摩邱,清淨比
thiên vương,[3] chánh điện bồ tát, ma kheo ma
kheo, thanh tịnh tỳ
邱,官事得散,私事得休。諸大菩薩,五百羅
kheo, quan sự đắc tán, tư
[4] sự đắc hưu. Chư đại bồ tát, ngũ
bá la
漢,救護弟子身,悉皆離苦難,自然觀世
hán,[5] cứu hộ đệ tử thân, tất giai [6] ly khổ nạn, tự nhiên [7] Quan Thế
音,纓絡不須解,勤誦千萬遍,災難自然得
Âm, anh lạc bất tu giải, cần tụng [8] thiên vạn biến, tai nạn tự nhiên
đắc
解脫,信受奉行。即說真言曰:
giải thoát, tín thọ phụng hành. Tức thuyết chơn ngôn viết:
giải thoát, tín thọ phụng hành. Tức thuyết chơn ngôn viết:
今菩今菩提 陀羅尼帝 尼佉羅帝 菩提薩婆訶。
Kim bồ kim đề [9] đà la ni đế
ni khư [10] la đế bồ đề tát bà ha [11].
So sánh hai bản
Bản
trên Internet
|
Bản
Minh Sư / Cao Đài
|
1.
|
|
2. thiên tai bá nạn khổ
|
tam tai bá nạn khổ
|
3. a nậu
đại thiên vương,
|
Không
ngắt câu sau chữ vương
|
4. tư sự
|
tụng sự
|
5.
ngũ bá la hán
|
ngũ
bá a la hán
|
6.
đệ tử thân, tất giai ly khổ nạn
|
đệ
tử nhứt thân ly khổ nạn
|
7.
nạn, tự nhiên Quan Thế Âm
|
nạn. Tự ngôn Quan
Thế Âm
|
8. cần tụng thiên
vạn biến
|
cần độc thiên
vạn biến
|
9. kim 今 bồ kim
今 bồ đề
|
kim 金 bà kim
金 bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế
|
10. ni khư
la đế
|
ni ha la
đế, tì lê ni đế, ma ha già đế, chơn lăng càn đế,
|
11. bồ đề tát bà ha.
|
ta bà ha.
|
HUỆ KHẢI
Phú Nhuận, 20-10-2008
([1]) Nhiều bản kinh thay bốn chữ đệ tử nhứt thân bằng chỗ trống […] để
điền họ tên của người đang cần được Bồ tát Quan Âm cứu khổ. Thí dụ, nếu cầu
giải bệnh cho Nguyễn Bê thì đọc: cứu hộ
Nguyễn Bê ly khổ bệnh. Cầu siêu cho Trần Xê thì đọc: cứu hộ Trần Xê đắc siêu thoát. Cầu an cho bá tánh thì đọc: cứu hộ chúng sanh ly khổ nạn.
([5]) Thông thường tín đồ quen hiểu bồ tát là một đấng thiêng liêng
vô hình. Cũng nên hiểu thêm theo nghĩa đại thừa, rằng bồ tát là người tu mang đại nguyện độ mình và độ đời thoát khổ. Một
người tu thiền (hành giả) quyết lòng tu hành rốt ráo cho thành tựu công phu tọa
thiền để đem trí huệ giải khổ cho đời, chính vị đó đang làm bồ tát hữu hình tại
thế gian. Trong ý nghĩa này, đàn cơ tại Cơ quan Phổ thông
Giáo lý,Tuất thời, 15-7 Đinh Tỵ (29-8-1977), Đức Quan Âm Bồ tát dạy:
Biển đời khổ nạn muôn trùng, / Đừng quên giữ một
tâm trung vững vàng. / Vì đời còn lắm tai nàn, / Độ đời bồ tát nguyện hoàn
công phu.
Hai chữ bồ tát trong câu
thánh giáo này chính là hành giả; hoàn 完 là trọn vẹn, hoàn tất (finished, completed). “Độ đời bồ tát
nguyện hoàn công phu” nghĩa là vị hành giả phát
nguyện đại thừa quyết chí tu thiền cho thành tựu, cho chứng đắc, để có thể đem
huyền năng cứu độ người đời. Hiểu như vậy, hai chữ bồ tát ở đây không cần viết hoa.