VỀ CÁCH ĐẶT NHAN ĐỀ
BỐN BÀI KINH CÚNG TỨ THỜI
CÓ NGUỒN GỐC CHỮ HÁN
Trong Kinh Cúng
Tứ Thời của đạo Cao Đài có bốn bài xưng tán Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế và Tam
Giáo Tổ Sư. Bốn bài này được in bằng chữ quốc ngữ và đọc theo âm Hán Việt vì
nguyên là chữ Hán (có nguồn gốc từ kinh tụng của đạo Lão Trung Quốc).
Các hội thánh, thánh sở hay một số tác giả trong cộng
đồng Cao Đài xưa nay có lưu hành một số bản in, bài viết về bốn bài kinh này.
Điều đáng lưu ý là việc đặt nhan đề bốn bài kinh ấy thường không nhất quán giữa
các hội thánh, thánh sở, hay tác giả.
So sánh các “dị bản” này, thường thấy xuất hiện cách đặt
nhan đề như sau, thí dụ:
* Thượng Đế chí
tâm quy mạng lễ,
Thượng Đế chí tâm
kinh,
Thượng Đế chí tâm,
* Phật Giáo chí
tâm quy mạng lễ,
Phật Giáo chí tâm
kinh,
Phật Giáo chí
tâm,
* Thích Giáo
chí tâm quy mạng lễ,
Thích Giáo chí
tâm kinh,
Thích Giáo chí
tâm,
* Thái Thượng chí
tâm quy mạng lễ,
Thái Thượng chí
tâm kinh,
Thái Thượng chí
tâm,
* Tiên Giáo chí
tâm quy mạng lễ,
Tiên Giáo chí tâm
kinh,
Tiên Giáo chí tâm,
* Nho Giáo chí
tâm kinh quy mạng lễ,
Nho Giáo chí tâm
kinh,
Nho Giáo chí tâm,
* Thánh Giáo chí
tâm quy mạng lễ,
Thánh Giáo chí
tâm kinh,
Thánh Giáo tâm
kinh, v.v...
Trong những cách đặt nhan đề như vậy, có đôi điều cần
xem lại:
(1) Bài xưng tán Phật Giáo trong Kinh Cúng Tứ Thời không thể gọi là Thích Giáo, vì bài này xưng tán Đức Nhiên Đăng Cổ Phật của thời Nhất
Kỳ Phổ Độ chứ không xưng tán Đức Thích Ca Mâu Ni của thời Nhị Kỳ Phổ Độ.
(2) Các cách gọi chí
tâm kinh, chí tâm thật ra chỉ là rút gọn cụm từ chí tâm quy mạng lễ. Lẽ ra không nên làm như thế.
(3) Không nên đưa chí
tâm quy mạng lễ vào làm nhan đề các bài kinh xưng tán này.
Các bài kinh tụng của đạo Lão Trung Quốc xưng tán
công đức và oai linh các đấng thiêng liêng thường khởi đầu bằng cụm từ chí tâm quy mạng lễ, như một nghi thức
có tính cách nhắc nhở tín đồ phải khép mình, cung kính khi hành lễ trước bàn
thờ.
Chí tâm quy mạng lễ nghĩa là gì?
Các bản kinh chữ Hán thường viết cụm từ này theo bốn
cách như sau:
至心皈命禮
志心皈命禮
志心歸命禮
至心歸命禮
Như vậy 志 (chí:
ý chí) dùng thông với 至 (chí: rất, lắm, cực độ). Tức là 志心 (chí tâm)
nên hiểu theo nghĩa 至心 (chí tâm: hết lòng, trọn cả
lòng thành khẩn).
Và 皈 (quy) dùng thông với 歸 (quy), nghĩa là đi theo, noi theo, tuân theo. 皈命 (歸命)
quy mạng nghĩa là tuân
phục, tin phục.
禮 (lễ): hành lễ, lạy.
Chí tâm quy mạng lễ nghĩa là
đem trọn cả lòng thành tuân phục cúi lạy.
Phú
Nhuận, 25-11-1997
HUỆ
KHẢI