Thứ Ba, 20 tháng 8, 2019

6/1. ĐẤT NAM KỲ TRƯỚC KHI CAO ĐÀI XUẤT THẾ / ĐẤT NAM KỲ − TIỀN ĐỀ PHÁP LÝ MỞ ĐẠO CAO ĐÀI




PHẦN I. ĐẤT NAM KỲ

TRƯỚC KHI CAO ĐÀI XUẤT THẾ
I. NGUỒN GỐC TÊN NAM KỲ LỤC TỈNH
Nghiên cứu lịch sử một tín ngưỡng không thể tách rời lịch sử của đất nước đã là cái nôi của nền tín ngưỡng đó. Lịch sử khai đạo Cao Đài khởi nguyên trong thập niên 20 của thế kỷ 20, tại miền Nam, lúc ấy còn được gọi là Nam Kỳ, Nam Kỳ Lục Tỉnh, Lục Tỉnh, và Lục Châu. Bối cảnh lịch sử miền Nam hay là một cái nhìn tổng quát về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của miền Nam ở đầu thế kỷ 20 rất cần thiết cho việc tìm hiểu lịch sử Cao Đài, cũng như sẽ “hiểu thêm tại sao miền Nam có vài sắc thái tôn giáo mà ngoài Bắc ngoài Trung không có...” ([1])
Theo Ðại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long đổi phủ Gia Định thành trấn Gia Định; đến năm Mậu Thìn (1808) đổi tên trấn Gia Định ra thành Gia Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên.
Năm Minh Mạng thứ 13 (Nhâm Thìn, 1832) vua Minh Mạng đổi tên thành Gia Định ra thành Phiên An, năm trấn chia thành sáu tỉnh là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Như vậy tên Lục Tỉnh đã có từ năm 1832. Hai năm sau (Giáp Ngọ, 1834), Lục Tỉnh được gọi chung là Nam Kỳ. Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên là tỉnh Gia Định.([2])
Sau khi chiếm xong ba tỉnh miền Đông gồm Gia Định, Định Tường, Biên Hòa (1862) và ba tỉnh miền Tây gồm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên (1867), thực dân Pháp xóa bỏ cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn.
Lúc đầu Pháp gọi département thay cho phủ, gọi arrondissement thay cho huyện.([3]) Khoảng năm 1868, Nam Kỳ Lục Tỉnh có hơn hai mươi arrondissement (gọi là hạt hay địa hạt, do tham biện cai trị, cơ quan hành chánh gọi là tòa tham biện, chịu dưới quyền thống đốc đóng ở Sài Gòn, thư ký địa hạt cũng gọi là bang biện tức là secrétaire d’arrondissement).
Nghị định ngày 07-6-1871 thu hẹp hai mươi hạt lại còn mười tám hạt; rồi tăng lên mười chín hạt (1876); tăng lên hai mươi hạt (1880); bỏ hạt hai mươi (1881); rồi lại lập thêm hạt Bạc Liêu (1882) và hạt Cap Saint-Jacques (1895) thành hai mươi mốt hạt.
Nghị định ngày 16-01-1899 đổi tên hạt thành tỉnh (province), tham biện đổi thành chủ tỉnh (chef de province), tòa tham biện gọi là tòa bố (cơ quan hành chánh cấp tỉnh).
II. LỤC TỈNH CHIA RA HAI MƯƠI MỐT TỈNH
Vài chục năm sau mới chia tỉnh ra quận (délégation) dưới quyền chủ quận; quận chia ra tổng (canton), đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành .([4])
Do có thay đổi tên theo Nghị định 1899, dân Nam Kỳ thời trước còn gọi viên chức đầu tỉnh là quan tham biện chủ tỉnh; người thông ngôn cho chủ tỉnh được gọi là thông ngôn đứng bàn ông chánh.([5]) Như vậy, do Nghị định 1899, từ năm Kỷ Hợi (1899), Lục Tỉnh của Nam Kỳ chia thành hai mươi mốt tỉnh như sau:
- Gia Định chia thành năm tỉnh: Chợ Lớn, Gia Định, Gò Công, Tân An, Tây Ninh.
- Biên Hòa chia thành bốn tỉnh: Bà Rịa, Biên Hòa, Cap Saint-Jacques (tức Vũng Tàu), Thủ Dầu Một.
- Định Tường đổi thành Mỹ Tho.
- Vĩnh Long chia thành ba tỉnh: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long.
- An Giang chia thành năm tỉnh: Cần Thơ, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Sóc Trăng.
- Hà Tiên chia thành ba tỉnh: Bạc Liêu, Hà Tiên, Rạch Giá.
Chia lại đất Nam Kỳ thành hai mươi mốt tỉnh,([6]) có lẽ thực dân Pháp muốn xóa nhòa hai chữ Lục Tỉnh trong lòng người Việt, cũng là cách cắt đứt lòng lưu luyến với truyền thống, một thủ đoạn tâm lý bên cạnh các cuộc đàn áp những phong trào yêu nước kháng chiến. Nhưng dân Nam Kỳ vẫn hoài vọng Lục Tỉnh. Nên mãi đến năm Mậu Thân (1908) trên tờ báo Lục Tỉnh tân văn do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu (1868-1919) làm chủ bút, vẫn xuất hiện thường xuyên tên Lục Tỉnh, Lục Châu. Mùa Thu năm Bính Dần (1926), khi khởi đầu công cuộc phổ độ ở miền Nam, các vị tiền bối khai đạo Cao Đài đã gọi đó là cuộc phổ độ Lục Tỉnh. Mãi đến hai thập niên 1950 và 1960, ở miền Nam cũng còn nói, nhắc đến hai chữ xa xưa này.
Pháp còn giữ lại hai chữ Nam Kỳ, gọi là Cochinchine, phân biệt với Bắc Kỳ là Tonkin, Trung Kỳ là Annam. Người Anh, Mỹ gọi Nam Kỳ là Cochinchina. Giới học giả trong và ngoài nước từng đưa ra nhiều cách lý giải khác nhau về xuất xứ tên gọi Cochinchine.([7])
III. VÀI THUẬT NGỮ HÀNH CHÁNH
NAM KỲ THUỘC PHÁP
1. Thống đốc và thanh tra
Đúng đầu bộ máy hành chánh Nam Kỳ thời Pháp chiếm là Thống đốc Nam Kỳ (Gouverneur de la Cochinchine). Viên chức này do Toàn quyền Đông Pháp (tức Đông Dương thuộc Pháp) giới thiệu và được Tổng trưởng Thuộc địa bổ nhiệm.
Toàn quyền còn cử thêm một viên chức lưu động, hàng năm thanh tra các tỉnh một lần và báo cáo cho Thống đốc. Đó là Thanh tra chánh trị và hành chánh sự vụ (Inspecteur des affaires politiques et administratives).
Các thanh tra này dĩ nhiên chỉ phục vụ cho quyền lợi của thực dân Pháp, cho nên mọi phúc trình của họ về tình hình Nam Kỳ đều đi ngược lại với lợi ích của dân Việt Nam. Chẳng hạn, thanh tra Lalaurette trong phúc trình ngày 01-01-1932, dài hai mươi bốn trang đánh máy khổ 21x33cm, khi trình bày về “Le Caodaïsme” đã dùng nhiều lời lẽ thiếu khách quan. Người nghiên cứu đạo Cao Đài cần hiểu rõ khía cạnh này để hiểu rõ vì sao năm 1970, khi cho khởi đăng chuyên khảo “An Introduction to Caodaism” trên tạp chí The Bulletin of the School of Oriental and African Studies (BSOAS), của Viện đại học London, Giáo sư Ralph Bernard Smith (1939-2000) cảnh giác mọi người hãy cẩn thận khi đọc những gì liên quan đến đạo Cao Đài được viết ra do những nhà chính trị thực dân, và Giáo sư Smith gọi cái óc thiếu vô tư, thiếu trung thực của họ là “the cynicism of political observers” − óc hoài nghi và thói mỉa mai cay độc của các quan sát viên chánh trị.([8])
2. Soái phủ
Trụ sở của Thống đốc đặt tại Sài Gòn (về sau gọi là Dinh Gia Long). Người miền Nam quen gọi là Soái phủ Nam Kỳ (Gouvernement des Amiraux), vì cho tới năm 1878 nó còn là dinh của một quan võ Pháp, hàm Lieutenant-Gouverneur, tức Phó soái. Kể từ năm 1879 mới thay quan võ bằng quan văn, và Thống đốc Nam Kỳ (dân sự) đầu tiên là Le Myre de Vilers. Mãi đến năm 1926, khi gọi Quyền thống đốc Le Fol,([9]) người Nam Kỳ vẫn còn quen miệng kêu lẫn lộn là Thống soái, Phó soái, dù ông không phải là sĩ quan.
3. Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ
Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (Conseil colonial de Cochinchine) đại diện Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Gò Công, Tây Ninh. Hội đồng thành lập năm 1880, dưới thời Thống đốc Le Myre de Vilers, có nhiệm vụ thảo luận ngân sách địa phương. Lúc đầu thành viên gồm có mười người Pháp, sáu Việt. Sau tăng lên mười bốn Pháp, mười Việt. Thành viên người Việt do đại diện các hương chức Nam Kỳ bầu. Hai vị tiền bối Cao Đài Lê Văn Trung và Cao Triều Phát từng là thành viên Hội đồng này.
4. Hội đồng Tư vấn
Hội đồng Tư vấn (Conseil privé) còn gọi là Hội đồng Chính phủ Đông Dương (Conseil de Gouvernement de l’Indochine), làm tư vấn cho Toàn quyền Đông Dương, gồm ba mươi hai thành viên người Pháp, và năm thành viên người Việt trong đó Toàn quyền chỉ định ba.([10]) Tiền bối Lê Văn Trung từng là thành viên Hội đồng này.
5. Hội đồng Thượng nghị viện Đông Dương
Đây là tên gọi thường gặp trong tiểu sử tiền bối Lê Văn Trung, vì tiền bối từng là ủy viên (sách sử Cao Đài thường viết là nghị viên) của tổ chức này. Tổ chức có tên Conseil supérieur de l’Indochine (Hội đồng Tối cao Đông Dương), được thành lập do sắc lệnh của Tổng thống Pháp ngày 17-10-1887, cùng ngày thành lập Liên bang Đông Dương (Union indochinoise). Đứng đầu Hội đồng là Toàn quyền Đông Dương.([11]) Thành viên Hội đồng gồm có: Tổng tư lệnh Bộ binh Pháp ở Đông Dương, Tổng tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn Đông, Tổng thơ ký Phủ Toàn quyền Đông Dương, Chánh quan Tư pháp, Giám đốc Thương chánh và Độc quyền, Thống đốc Nam Kỳ, Tổng trú sứ Trung-Bắc Kỳ, Khâm sứ ở Cao Miên. Khi Tổng trú sứ Trung-Bắc Kỳ bị bãi bỏ (09-5-1889) thì thay vào là Thống sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ. Khi Lào có chức Khâm sứ (19-4-1899) thì Hội đồng có thêm ủy viên là Khâm sứ Lào.
Hội đồng có chức năng tư vấn (consultatif) cho Toàn quyền Đông Dương các vấn đề về ngân sách, thuế khóa, thiết lập các thành phố, các phòng thương mại, các phòng canh nông, chế độ báo chí… Hội đồng ngưng hoạt động năm 1894. Ngày 03-7-1897 Tổng thống Pháp ra sắc lệnh tái lập Hội đồng. Ngày 20-10-1911 Tổng thống Pháp ra sắc lệnh đổi tên Hội đồng là Conseil de Gouvernement de l’Indochine, tức là Hội đồng Chánh phủ Đông Dương. Với tên gọi mới này, Hội đồng có thêm ba ủy viên người bản xứ do Toàn quyền chỉ định hàng năm, chọn trong số các kỳ hào (notables) ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Cao Miên (mỗi nơi chọn một ủy viên).([12]) Có lẽ đó là lý do tiền bối Lê Văn Trung có chân trong Hội đồng Chánh phủ Đông Dương từ ngày 10-12-1914.
6. Chủ tỉnh, chủ quận, tri phủ, tri huyện
Tỉnh ở Nam Kỳ chia thành nhiều quận, đứng đầu là chủ quận. Trong khi đó, ở Bắc Kỳ, tỉnh chia thành nhiều phủ, đứng đầu là tri phủ; phủ chia thành nhiều huyện, đứng đầu là tri huyện.
Ở Nam Kỳ, quận chia thành nhiều tổng, đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành nhiều làng.
Chủ tỉnh là người Pháp. Do Nghị định ngày 15-02-1898, chủ quận được tuyển trong số viên chức hành chánh người Việt nào đã có ngạch huyện, phủ, đốc phủ sứ. Cho nên tri huyện, tri phủ ở Nam Kỳ chỉ là ngạch trật về hành chánh, không phải là quan chức như ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, mặc dù người miền Nam quen gọi chủ quận là quan phủ, quan huyện. Những viên chức người Việt này xuất thân là thơ ký, có thể có một ít vốn chữ Nho, học ở trường làng trước khi vào học chương trình Pháp ở Collège de Mỹ Tho,([13]) và trường Bổn quốc ở Sài Gòn, tức là Collège Chasseloup Laubat.([14]) Phần lớn các bậc tiền bối có công khai đạo Cao Đài đã xuất thân từ hai trường học này. Hai trường trung học lớn khác là Petrus Ký ở Sài Gòn và Collège de Cần Thơ.
IV. VÀI ĐẶC ĐIỂM ĐÁNG CHÚ Ý Ở NAM KỲ
1. Số dân
Đầu thế kỷ 20, Sài Gòn và Chợ Lớn là hai khu vực riêng biệt. Riêng Sài Gòn rộng chừng 780 mẫu tây.
Số dân toàn Nam Kỳ (từ 15 tuổi trở lên) năm 1905 là 2.876.417; năm 1909 là 2.975.838. Số dân tăng lên vì có nhiều người từ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Quảng Đông, Phước Kiến vào miền Nam làm ăn.([15]) Cho đến năm 1920, số dân Nam Kỳ ước độ 3.600.000, và riêng số người Việt ở vùng Sài Gòn (không kể Chợ Lớn) vào năm 1921 là 308.512 người.([16]) Năm 1930 tổng số dân miền Nam khoảng bốn triệu người.([17])
2. Bộ mặt chung của Sài Gòn
Sài Gòn đến thế kỷ 20 chưa liệt vào “Hòn ngọc Viễn Đông” − la perle de l’Extrême-Orient. Sơn Nam miêu tả: “Ánh đèn điện chỉ rọi sáng khu trung tâm thành phố. Phía ngoại ô từ rạch Thị Nghè đi Bà Chiểu, nhà cửa thưa thớt, ban đêm tối om.” Nhiều tin đồn ma quỷ hiện ở Cầu Bông, và khu Lăng ông Bà Chiểu. Tại Thủ Đức, Hóc Môn còn có cọp xuất hiện.([18])
Chợ Bến Thành năm 1911 chưa có, “ba năm sau (1914) thì cất xong nhưng trước mặt còn ao vũng sình lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp, chưa có dự kiến nên nối liền, còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đá ong ...” (Đó là đường Gallieni, nay là Trần Hưng Đạo.)
“Xe lửa nối liền ra ngoại ô còn dùng hơi nước đến 1913 mới cải tiến chạy bằng sức điện.” ([19])
Trên đường Paul Blanchy (nay là Hai Bà Trưng), phía sau Nhà hát lớn đã có nhà đèn, lập từ cuối thế kỷ XIX. Về sau nó được “dời về Chợ Quán với quy mô to hơn, chạy hơi nước. Năm 1909, Sài Gòn và Chợ Lớn thiết bị tạm xong hệ thống đèn điện ở ngoài đường.” ([20])
“Về mặt hành chánh, đô thành Sài Gòn lần lần nới rộng, bao gồm vùng bên này Cầu Bông, Tân Định, rồi Khánh Hội, Chánh Hưng. Diện tích thành phố Sài Gòn (không có Chợ Lớn) vào năm 1907 là 1.674 héc-ta. Tuy thêm nhà cửa, dinh thự nhưng khu vực náo nhiệt vẫn chưa phát triển ra khỏi đường Cách mạng Tháng Tám,([21]) đường Nguyễn Thái Học. Giữa Sài Gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre, cây da, mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ. Phương tiện xê dịch thông dụng là xe kiếng khi đổ mưa; người đánh xe mặc áo tơi bằng lá giống như áo tơi của nông dân vậy thôi. Chở chuyên hàng hóa thì dùng xe bò.” ([22])
3. Tín ngưỡng và khoảng trống ý thức hệ
Theo Sơn Nam, “Việc thờ phượng Quan công, thờ Phật, việc tin tưởng vào chư tiên chư thánh đã có sẵn từ lâu ở miền Nam...” ([23])
Nhận xét về “giới bình dân đông đảo ở nông thôn và lớp nghèo thành thị”, Sơn Nam thấy rằng họ đã “xây dựng một nếp sống tinh thần khá ấm áp, bình đẳng, lấy tình nghĩa huynh đệ làm trọng, sống chết có nhau, giữ trung cang nghĩa khí lúc khó khăn, hiếu động. Đúng là nếp sống tinh thần kết tinh đạo Phật, Lão, Khổng.” ([24])
Những nhận xét này cho thấy trước khi đạo Cao Đài xuất thế, ở Nam Kỳ đã có sẵn mảnh đất tốt cho một tín ngưỡng tổng hợp Tam giáo phát triển. Tuy nhiên, khi xét về chiều sâu, thì ảnh hưởng Tam giáo ở Nam Kỳ hầu như chưa đủ để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân Nam Kỳ.
Đinh Văn Hạnh nhận định: “Như vậy, suốt một thời gian dài, trong cộng đồng cư dân người Việt ở đất mới Nam Bộ [Nam Kỳ] đã không có một hệ tư tưởng hay tôn giáo chủ đạo nào chi phối, mà trái lại, bị nhiều hệ tư tưởng, tôn giáo khác nhau (mới và cũ) cùng tác động.” ([25])
Sơn Nam viết: “Lúc thực dân đang thắng thế, người ở Nam Bộ [Nam Kỳ] nói chung đã tùy thời mà sống, hệ ý thức cũ đã mất sinh lực.” ([26])
Nói về đời sống tâm linh của người Nam Kỳ trước khi đạo Cao Đài xuất hiện, Jayne Susan Werner xác định rõ rằng đã có khoảng trống lớn về ý thức hệ ở Nam Kỳ trước thế kỷ 20: “Đạo Phật và Khổng suy thoái, để lại một khoảng trống văn hóa thuận lợi cho việc sáng lập các giáo thuyết mới nhắm vào mục đích khôi phục nền văn hóa Việt Nam.” ([27])
Khoảng trống đó là hậu quả của đất nước bị thực dân Pháp xâm chiếm, biến Nam Kỳ thành thuộc địa. Werner viết: “... sau khi Pháp xâm chiếm, đạo Khổng và Phật đã suy thoái. Các thầy tu có học thức của Phật và Lão thực tế đã không có mặt ở Nam Kỳ trong những năm 1920. Đạo Khổng không còn sức mạnh là một học thuyết chính trị và xã hội, mặc dù đạo Khổng vẫn còn là căn bản cho đạo đức gia đình trong những thập niên 1920 và 1930.” ([28])
Điều này giải thích vì sao khi đạo Cao Đài phổ độ Lục Tỉnh, số tín đồ quy tụ rất mau lẹ và đông đảo, khiến thực dân Pháp hết sức lo ngại. Thật vậy, căn cứ theo “Số ước lượng tín đồ Cao Đài do Thống đốc Nam Kỳ cho biết, trong một báo cáo gởi Toàn quyền Đông Dương ngày 14-12-1934. Hồ sơ riêng của Thống đốc Pagès”,([29]) Jayne Susan Werner viết: “Vào khoảng năm 1930, có từ năm trăm ngàn tới một triệu nông dân theo đạo Cao Đài, trong lúc tổng số dân [Nam Kỳ] là từ bốn tới bốn triệu rưỡi.” ([30])
4. Cách ăn mặc
“Trừ một số ít được theo Tây học, làm công chức (từ thơ ký thi tuyển lên huyện, phủ) ưa mặc Âu phục còn đại đa số (luôn cả người theo Tây học) thích xuất hiện, ăn tiệc, chụp ảnh với cái khăn đóng, áo dài đen, quần trắng, đi giày hàm ếch, tay chống ba-ton, để râu trái ấu vuốt sáp; giới quan quyền mặc áo dài lụa xanh thêu chữ thọ, mang giày da buộc dây.” ([31]) Ai theo thời mới thì “mặc Âu phục, đội nón Tây, thắt nơ, râu vuốt sáp, tóc ngắn.” ([32]) Bên cạnh đó, “công chức hạng nghèo thuở ấy mặc áo dài đen.” Đấy cũng là hình ảnh các tiền bối Cao Đài thời mở đạo. Còn những người thuộc “giới công nhân và lao động chịu hớt tóc ngắn, nhưng còn giữ búi tóc, bịt khăn đầu rìu hoặc ở trần, đi chân đất không phải ít.” ([33])
5. Tâm lý quần chúng
Nhận xét tâm lý quần chúng ở Nam Kỳ dưới chế độ khắc nghiệt của thực dân Pháp, tuần báo Lục Tỉnh tân văn số 46, ngày 01-10-1908 viết: “Tánh người An Nam mình hay sợ sệt lắm...” Do đó, khi chủ xướng những công cuộc lớn lao, muốn vận động, thu hút quần chúng, trong thành phần nhân sự nòng cốt bao giờ cũng cần có các công chức. Sơn Nam nêu ra lý do là dân chúng “tin rằng công chức luôn luôn đàng hoàng, không làm quốc sự.” Ngay cả trong chuyện kinh doanh, điều này vẫn đúng, cho nên số báo nói trên viết rằng trong thương mại “hễ có các ông nha môn [công chức] ra làm đầu thì đâu đâu ai cũng xin vô hùn.” ([34])
Tìm hiểu thời kỳ khai nguyên đạo Cao Đài nên lưu ý yếu tố tâm lý này. Trong số các vị môn đồ của buổi đầu khai sơn phá thạch, có đủ thành phần: nông dân, nhà tu xuất gia, cư sĩ, nghệ sĩ, nhà báo, nhà giáo, nhà buôn... và một con số không ít gồm các công chức. Các công chức này đã góp phần lớn trong việc thu hút đông đảo dân chúng nhập môn đạo Cao Đài, nhất là khi nhân cách của các vị chinh phục được tình cảm của rất nhiều dân chúng địa phương. Có thể nêu một trường hợp tiêu biểu là tiền bối Nguyễn Ngọc Tương (1881-1951), Giáo tông Hội thánh Ban Chỉnh Đạo, đã từng làm chủ quận Châu Thành (tỉnh Cần Thơ), quận Hòn Chông (tỉnh Hà Tiên), quận Cần Giuộc (tỉnh Chợ Lớn), quận Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa).
V. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ -XÃ HỘI
Nổi bật ở Nam Kỳ đầu thế kỷ 20 là phong trào Minh tân do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu (1867-1919) và các đồng chí như Dũ Thúc Lương Khắc Ninh (1862-1943), Mạnh Tự Trương Duy Toản (1885-1957)... lãnh đạo. Phong trào bị thực dân Pháp đàn áp.
Trên tuần báo Lục Tỉnh tân văn, ông chủ bút Gilbert Chiếu thường gọi các đồng chí của mình là “vị Minh tân” hay “tay Minh tân”.([35]) Tiền bối Lê Văn Trung (1876-1934) được Lục Tỉnh tân văn số 27, ngày 21-5-1908 giới thiệu là “người Minh tân”, và Sơn Nam ghi nhận tiền bối Lê Văn Trung “về sau này là vị Quyền giáo tông của Đại đạo Tam kỳ Phổ độ (đạo Cao Đài), một tôn giáo mới tổng hợp Đông Tây thâu hút đồng bào Minh tân lúc trước, khiến thực dân Pháp lo ngại.” ([36])
Tiền bối Phạm Công Tắc (1890-1959) suýt cũng bị Pháp bắt trong vụ thất bại của phong trào Minh tân. Lúc ấy, phong trào tổ chức đưa thanh niên ra nước ngoài học (Đông du), ba chuyến đầu trót lọt. Tiền bối Phạm Công Tắc được bố trí đi chuyến thứ tư. Lần này bị lộ, Pháp ập đến trụ sở Minh tân Công nghệ xã, nhờ ông Dũ Thúc Lương Khắc Ninh kịp thủ tiêu hồ sơ và chứng tích nên không ai bị bắt.
Do ít nhiều mối liên hệ giữa cá nhân hai tiền bối Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc với phong trào yêu nước Minh tân như vậy, nên sau này không tránh khỏi có một ít người ngộ nhận, lầm tưởng rằng Cao Đài là “dư âm”, là “hậu thân” [sic] của phong trào Minh tân.([37])
Đã đành có rất đông tín đồ buổi đầu khai Đạo cũng là những người yêu nước chống thực dân, như nhà sử học Phạm Văn Sơn đánh giá: “Ngày nay dù sao chúng ta cũng không thể phủ nhận lòng ái quốc chân thành của các nhà lãnh đạo Cao Đài...” ([38]) nhưng yêu nước chỉ mới là một trong nhiều nội dung của giáo lý Cao Đài, và được đạo Cao Đài coi là một tiêu chuẩn luân lý của đạo làm người (thế đạo hay nhân đạo). Tuy vậy không thể đơn thuần chỉ xét cạnh khía này rồi đồng hóa đạo Cao Đài với các phong trào chính trị, không khách quan nhìn thấy đạo Cao Đài là một tín ngưỡng độc đáo của dân tộc Việt Nam.
Tình hình chính trị ở Nam Kỳ đầu thế kỷ 20 vô cùng phức tạp, gay gắt. Có những biến cố lớn như sau:
- 1903: Sào Nam Phan Bội Châu (1867-1940) vào tận Châu Đốc để tìm hiểu phong trào cách mạng ở Nam Kỳ.
- 1908: Pháp đàn áp phong trào Minh tân.
- 1913: Kỳ ngoại hầu Cường Để (1882-1951) vào Nam Kỳ, lưu lại ba tháng. Phan Xích Long (1893-1916) xưng là hoàng đế, khởi nghĩa ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, rồi bị bắt giam ở khám Lớn (Sài Gòn).
- 1914: Thế chiến thứ Nhất bùng nổ ở châu Âu.
- 1915: Pháp bại trận. Phát xít Đức chiếm Paris. các phong trào yêu nước ở Việt Nam hy vọng có thể lợi dụng tình thế này để giành lại độc lập.
- 1916: Dân chúng đánh khám Lớn giải cứu Phan Xích Long, nhưng thất bại. Mười ba tỉnh của Nam Kỳ cực kỳ xáo trộn vì loạn lạc, và bị giặc Pháp khủng bố.
- 1920: Toàn quyền Maurice Long tổ chức lại Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ, tức Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial), là nơi các nhóm tư bản Hoa, Pháp và tư sản Nam Kỳ tranh giành quyền lợi. Sự xâu xé ấy lan ra báo chí, chiếm chỗ trên các báo: La tribune indigène của Bùi Quang Chiêu (1872-1945) và Nguyễn Phú Khai (1887-?), L’Indochine của luật sư Paul Monin, La Voix libre của Edgar Ganofsky (1880-1943), La Cloche fêlée của Nguyễn An Ninh (1900-1943), L’Écho annamite của Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long (1889-1960)…
Bên cạnh đó, do nghề in phát triển, sách vở có nội dung cách mạng được lưu hành bí mật hay phổ biến công khai.([39])
Trong lúc giới trí thức Nam Kỳ gần như lạc vào trận đồ bát quái thì quần chúng bình dân thế nào? Các thanh tra chánh trị và hành chánh sự vụ của thực dân báo động rằng các cuộc cầu cơ hỏi chuyện “quốc sự”, nói sấm tiên tri thời cuộc đang lan tràn khắp Lục Tỉnh. Có câu rằng:
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng,
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
Người ta đoán đến một năm Ngọ nào đó “thằng Tây” sẽ thua (thầy tăng hết thời), và tại một vùng sông nước linh thiêng nào đó sẽ xuất hiện vị cứu tinh của dân tộc Việt Nam:
Bảo giang thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành,
Rồi đây mới biết thánh minh,
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.
Người ta chờ, hy vọng sẽ thấy minh vương (vua sáng suốt):
Bao giờ Nam Việt thạnh thời,
Minh vương sửa trị ngôi Trời đặt an.
Có lẽ do đức tin đó, năm 1913, Phan Xích Long khi khởi nghĩa cho thêu trên lá cờ những chữ Nho bí hiểm: Bửu sơn kỳ hương 寶山奇香, và Thánh minh vương phật 聖明王佛.
Còn những người an phận, thích tìm nơi hoang vắng tu hành, chịu khổ hạnh đợi hội Long hoa, chờ Phật vương ra đời.
Không khí tín ngưỡng dân gian nhuộm khắp Lục Châu. Giới trí thức ở thành thị cũng không kém.
Thanh tra Lalaurette, trong phúc trình “Le Caodaïsme” (1932), báo cáo rằng những năm đầu thập niên 1920, trong giới công tư chức Nam Kỳ nổi lên một phong trào tìm hiểu và thực hành thông công với thế giới siêu hình qua sách vở chữ Pháp của các tác giả Thông linh học như Allan Kardec (Pháp, 1804-1869), Nicolas Camille Flammarion (nhà thiên văn Pháp, 1842-1925), và các tác giả Thông thiên học ([40]) như Helena Petrovna Blavatsky (1831-1891), Henry Steel Olcott (1832-1907), Annie Besant (nữ sĩ Anh, 1847-1933), v.v...
Theo Lalaurette, một chủ quận hồi ấy ghi nhận: “Une véritable vague de spiritisme sévissait en 1924-1925 dans toute la Cochinchine.” (Một làn sóng thông linh học lan tràn khắp Nam Kỳ những năm 1924-1925.)
Buổi ban sơ gầy dựng nền tảng phổ độ của đạo Cao Đài cũng bắt đầu từ nhóm công chức người tỉnh Tây Ninh đang làm việc ở Sài Gòn, thực tập xây bàn (la table tournante, la table frappé) tại phố Hàng Dừa (Arras) để tiếp xúc với cõi siêu hình theo cách chỉ dẫn trong các sách Thông linh học in bên Pháp.([41])
Thanh tra Lalaurette còn cho biết Pháp đã tìm đủ mọi cách để trấn áp, như áp dụng các hình phạt nặng, vận dụng điều 144 của Hình luật, Quyển 6, để xử giảo nạn nhân, hoặc truy nã theo Nghị định 22-4-1873 của Chuẩn đô đốc (Contre-amiral) Dupré. Pháp còn cho người trà trộn vào các nơi đáng nghi để theo dõi, chỉ điểm, dựa theo những quy định về thu dụng nhân viên chìm, chế độ trả tiền cho kẻ điềm chỉ... mà Chuẩn đô đốc Lafont ban hành ngày 06-7-1878.
Trong tình hình như thế, việc cầu cơ vẫn xuất hiện khắp cả ba kỳ, mặc dù phải dè dặt, kín đáo; phải tổ chức lẻ tẻ, ít người tham dự.([42]) Chính các đàn cơ ở khắp nơi như vậy dã có ít nhiều liên hệ với sự xuất thế của đạo Cao Đài.
VI. CƠ BÚT TIÊN TRI CAO ĐÀI XUẤT THẾ
Các đàn tiên tri quy tụ những người hầu đàn cơ gồm đủ mọi tầng lớp trong xã hội, do nhiều mục đích khác nhau. Có thể chia ra ba nhóm chính:
- Nhóm sĩ phu ưu thời mẫn thế, mượn đàn cơ để hỏi việc thiên cơ, hầu biết vận mệnh đất nước ra sao. Những đàn này thường lập rất kín đáo.
- Nhóm mặc khách tao nhân, mượn đàn cơ để xướng họa thi phú với thần tiên, di dưỡng tính tình. Những đàn này thường lập trong số ít người đồng thanh khí.
- Nhóm bình dân, gồm những người cần xin thuốc chữa bịnh, cầu thọ ... Những đàn này phổ biến hơn cả, rất đa dạng. Qua sự linh ứng nhãn tiền, đông đảo dân chúng đã có đức tin nơi siêu hình. Những đàn này thường chỉ hoạt động trong một thời gian nhất định, tại một địa phương nào đó, rồi ngưng hẳn (bế đàn). Ở Nam Kỳ hồi đầu thế kỷ 20 có một số đàn hữu danh thuộc loại này, như đàn Hiệp Minh (ở Cái Khế, tỉnh Cần Thơ), đàn Minh Thiện (ở Thủ Dầu Một, Bình Dương), đàn Chợ Gạo (tỉnh Chợ Lớn)... Trước khi biết đạo Cao Đài, tiền bối Ngô Văn Chiêu (1878-1932) đã nhiều lần đến các đàn tiên Hiệp Minh, Minh Thiện để cầu thọ hoặc xin thuốc tiên cho mẹ.([43])
Trong số các đàn tiên tri sự xuất hiện của đạo Cao Đài, có thể dẫn lại ba trường hợp tiêu biểu như sau:
1. Đàn tại quận Cao Lãnh (1913)
Thứ Sáu, ngày 03-01-1913 (26-11 Quý Sửu), tại quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc, một nhóm sĩ phu lập đàn tại nhà ông Lê Quang Hiển (1872-1950),([44]) mục đích hỏi về thiên cơ, quốc sự. Chơn linh nhà Nho yêu nước Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân (1841-1875) giáng cơ ban cho bài thơ chữ Nho ([45]) như sau:
Dung tất Cao Đài nhiệm khuất thân,
Tứ chiêm đào lý nhứt môn xuân.
Canh tân bồi úc giang sơn cựu,
Trừ cựu thời thiêm tuế nguyệt tân.
Cửu thập thiều quang sơ bán lục,
Nhất luân minh nguyệt vị tam phân.
Thừa nhàn hạc giá không trung vụ,
Mục đổ Cao Đài tráng chí thân.
Ngài lại ban cho bài thơ dịch:
Co duỗi Cao Đài khoẻ tấm thân,
Dạo xem đào lý đượm màu xuân.
Giang sơn chẳng khác ngàn năm cũ,
Ngày tháng chờ thay một chữ tân.
Chín chục thiều quang vừa nửa sáu,
Một vừng trăng rạng chửa ba phân.
Thừa nhàn cưỡi hạc không trung ruổi,
Chạm mắt Cao Đài khoẻ tấm thân.([46])
Hai chữ Cao Đài được nhắc tới bốn lần nhưng không ai hiểu ngụ ý gì. Gia đình ông Lê Quang Hiển sao lại hai bài thơ, cất lên trang thờ làm kỷ niệm.
Tháng 10-1926 (tháng 9 Bính Dần), khi các tiền bối Cao Quỳnh Cư (1888-1929), Cao Hoài Sang (1901-1971), Lê Bá Trang (1878-1936), Vương Quan Kỳ (1880-1940)... trong đợt phổ độ Lục Tỉnh đến truyền đạo Cao Đài tại quận Cao Lãnh, bấy giờ mọi người mới nhớ hai bài thơ mười ba năm trước.
2. Đàn tại miễu Nổi (1923) và chùa Ngọc Hoàng (1923)
Miễu Nổi (Phù Châu miếu 浮州廟) không biết có từ bao giờ, nằm trên một cồn nhỏ nổi giữa sông Vàm Thuật, Bến Cát, nay thuộc phường 5, quận Gò Vấp (bên kia bờ là An Phú Đông, quận 12).
Trong một đàn lập ở miễu Nổi đêm thứ Hai 30-7-1923 (17-6 Quý Hợi), một vị trong Bát tiên là Tào Quốc cữu giáng cơ khuyến tu, có đoạn: “Chư nhu có phước có duyên nên mới gặp Đạo kỳ này là kỳ thứ Ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. Hữu duyên đắc ngộ Tam kỳ độ, tiên thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân.” ([47])
Cùng năm ấy tại chùa Ngọc Hoàng (Ngọc Hoàng điện 玉皇殿), nguyên của đạo Minh Sư ([48]) còn có một đàn cơ tiên tri khác, vào đêm Chủ nhật 02-9-1923 (22-7 Quý Hợi):
Huê phát Tam kỳ Đạo dĩ khai,
Quang minh tứ hướng thướng tam tài.
Đại phước kim đơn thân đắc ngộ,
Đế quân giáng hạ, nhữ vô tai.([49])
Bài thơ khoán thủ thành Huê Quang Đại đế 華光大帝, là vị giáng đàn. Câu một nói “Tam kỳ Đạo dĩ khai” (Đạo kỳ Ba đã mở rồi) ám chỉ việc tiền bối Ngô Văn Chiêu (1878-1932) đã học đạo với Đức Cao Đài Tiên ông trước đó hai, ba năm (1920-1921). Câu hai nói “tứ hướng thướng tam tài” (bốn phương đều kéo cờ ba màu)([50]) tiên tri từ năm 1926 trở đi khắp nơi sẽ nhìn thấy cờ của đạo Cao Đài gồm ba màu vàng, xanh, đỏ, tượng trưng cho Tam giáo (Phật, Lão, Nho). Câu ba nói tới “kim đơn” nhằm ngụ ý liên hệ tới phần nội giáo tâm truyền (tu thiền hay tịnh luyện, esotericism) của đạo Cao Đài.
HUỆ KHẢI



([1]) [Sơn Nam 1971: VII].
Lưu ý – Cước chú này cho biết đoạn trích dẫn trên đây mượn trong một quyển sách của Sơn Nam xuất bản năm 1971, trang VII. Về chi tiết của nguồn tài liệu, xem Thư tịch cuối chuyên khảo này (tr. 76).
([2]) [Đại Nam 1992: 122, 133, 200, 201].
([3]) [BSEI 1945: 16].
([4]) Theo [BSEI 1945: 16-35] và theo [Nguyễn Đình Đầu 1988: 485-486]. Theo [Đào Văn Hội 1961: Chương IV], tham biện là inspection; viên chức trông coi inspection gọi là inspecteur hay résident. Về tên bang biện, xem [Paulus Của 1888: 15].
([5]) [Sơn Nam 1971: 99].
([6]) Tỉnh thứ hai mươi hai là Tân Bình, gồm một phần tỉnh Gia Định và Chợ Lớn nhập lại, được lập từ ngày 11-5-1944.
([7]) Trong [Pierre Pigneaux de Béhaine 1999: 5-6], nhà sử học Nguyễn Đình Đầu giải thích:
“Chúng ta có thể tóm tắt: địa danh COCINCINA chia ra làm hai phần COCIN và CINA. Cocin nguyên trước là Co Ci, do phiên âm hai tiếng Giao Chỉ mà thành (vì thế Tự vị An NamLa Tinh mới dịch Người Giao Chỉ là Cocincinenses). Còn Cina thì bởi âm Sin hay Ts’inn và người mình đọc là Tần mà ra. Bên Ấn Độ có một thành phố tên COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, nên phải ghi rõ “Giao Chỉ (gần) Tần” và chữ La Tinh ghi thành COCINCINA (mà người Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ Chi Na). Trên các bản đồ Tây phương vẽ Đông Nam Á, từ trước cho tới thế kỷ XVII, đều ghi trên địa phận nước ta tên COCINCINA, CAUCHINCHINA, COCHINCHINA, COCHINCHINE hoặc dạng tự nào đại khái như thế để nói lên đó là xứ GIAO CHỈ GẦN NƯỚC TẦN. Do đó, ta có thể đoán địa danh ấy đã xuất hiện từ khi nước ta gọi là quận Giao Chỉ bị nhà Tần đô hộ.
“Từ đầu thế kỷ XVII, hai họ Trịnh-Nguyễn tranh giành quyền lực, phân chia nước ta thành hai vùng cai trị Đàng Trong và Đàng Ngoài, lấy sông Gianh làm ranh giới phân ly. Trên bản đồ cũng như trong văn kiện, người Tây phương gọi Đàng Ngoài là TUNQUYN (hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, TONKIN...) tức lấy tên thủ đô ĐÔNG KINH để gọi bao quát cả Đàng Ngoài. Còn Đàng Trong thì họ vẫn dùng tên cũ COCINCINA mà gọi. Đàng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ điển Việt-Bồ-La) rộng từ sông Gianh tới núi Đá Bia ở dinh Phú Yên. Trên một thế kỷ sau – thời của Bỉ Nhu với Tự vị An Nam−La Tinh –, địa danh COCINCINA lại chỉ thêm phần đất phương nam rất rộng lớn. Phần Nam Bộ xưa được mệnh danh là xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đó đến năm 1800 và bao gồm toàn thể đất Nam Bộ. (...) Lại từ sau 1885, khi Pháp đã chiếm hết Việt Nam, Pháp chia cắt nước ta thành ba khúc và mệnh danh: TONKIN là BẮC KỲ; ANNAM là TRUNG KỲ; COCHINCHINE là NAM KỲ
“Cả ba địa danh Đông Kinh, An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đã bị Tây ngữ hóa và đặt tên cho những phần đất chẳng ăn nhằm gì với ý nghĩa của nguyên ngữ.”
Nói thêm: COCHIN mà nhà sử học Nguyễn Đình Đầu nói tới là một cảng trên bờ biển Malabar ở tây nam Ấn Độ, là nơi người phương Tây đặt chân lên nước Ấn trước tiên. Cảng bị thực dân Bồ Đào Nha chiếm từ năm 1502. (Huệ Khải chú)
([8]) [Smith 1970: 335].
([9]) Ngày 09-4-1926 Aristide Eugène le Fol, ngạch tham biện hạng nhất (administrateur de 1er classe), được bổ làm quyền thống đốc Nam Kỳ, nhậm chức ngày 19-4-1926. Như vậy các sách sử Cao Đài hay chép Le Fol là “thống đốc” thì không đúng. Ông ta chỉ là quyền thống đốc, đảm nhiệm chức vụ trong khoảng hơn nửa năm trong lúc chờ một thống đốc chính thức từ Pháp bổ sang. Tuy nhiên, trong cách xưng hô (như trên Tờ khai Đạo ngày 07-10-1926), mọi người vẫn gọi ông là “Thống đốc” vì phép lịch sự.
([10]) [Nguyễn Thế Anh 1970: 134, 141, 145].
([11]) Toàn quyền thuộc bên hành pháp, do đó không nên dịch Conseil supérieur de l’IndochineHội đồng Thượng nghị viện (sic) vì Thượng nghị viện thuộc bên lập pháp. Do đó thành viên Conseil supérieur de l’Indochine nên gọi là ủy viên thay cho nghị viên.
([12]) [Dương Kinh Quốc 2005: 125-127].
([13]) Collège de Mỹ Tho do Chuẩn đô đốc, Thống đốc Nam Kỳ, Bá tước Louis Charles Georges Jules Lafont lập ngày 17-01-1879. Đến ngày 14-6-1881 thì Đại tướng, Quyền thống đốc Nam Kỳ Arthur de Trentinian đổi tên trường thành Collège le Myre de Vilers. [Dương Kinh Quốc, 1999: 109]. Từ năm 1953 đổi tên thành trung học Nguyễn Đình Chiểu cho tới nay. Charles Marie le Myre de Vilers là cựu tỉnh trưởng (préfet), cựu giám đốc dân sự vụ (directeur des affaires civiles) ở Algérie, được bổ làm thống đốc Nam Kỳ ngày 13-5-1879, nhậm chức từ 07-7-1879 đến 11-01-1883, vắng mặt ở Sài Gòn từ 04-3-1881 đến 31-10-1881. (Theo Commission française du Guide des Sources de l’Histoire des Nations, Sources de l’Histoire de l’Asie et de l’Océanie dans les Archives et Bibliothèques françaises. Part I: Archives. [Ouvrage préparé avec l’aide et sous les auspices de l’Unesco.] München: K.G. Saur, 1981, pp. 538-539.).
([14]) Lược sử Collège Chasseloup-Laubat như sau: Pháp thành lập École Normale coloniale (trường sư phạm thuộc địa, 10-7-1871); xây trên phần đất chùa Khải Tường (12-8-1871). Đổi tên thành Collège Indigène (trường bản xứ, 1874). Đổi tên thành Collège Chasseloup-Laubat (1876), chia ra khu Âu (quartier européen) và khu bản xứ (quartier indigène). Tách khu bản xứ nhập sang Collège de Cochinchine (trung học Nam Kỳ, 15-7-1927). Collège Chasseloup-Laubat đổi tên thành Lycée Chasseloup-Laubat (1928), còn Collège de Cochinchine đổi tên thành Lycée Petrus Ký. [Nguyễn Đình Đầu 1998: 696, 730]. Trường lại đổi tên là Lycée Jean-Jacques Rousseau (1958), và sau cùng là trường trung học Lê Quý Đôn (1966 cho tới nay). Chasseloup-Laubat là Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa của triều đình Pháp, chủ trương chiếm Sài Gòn để làm căn cứ thuận lợi cho quân viễn chinh Pháp ở Viễn Đông. Ông ta tác động vua Napoléon III rất nhiều trong chính sách xâm lược, cướp Nam Kỳ làm thuộc địa.
([15]) [Sơn Nam 1971: XII], và [Sơn nam 1981: 150-151].
([16]) [Sơn Nam 1984: 175].
([17]) [Sơn Nam 1984: 175].
([18]) [Sơn Nam 1981: 145-146].
([19]) [Huệ Khải 2008a: 8].
([20]) [Sơn Nam 1981: 146].
([21]) Tên đường này có từ ngày 14-8-1975. Thời Pháp thuộc (1916) là đường Verdun. Từ ngày 22-3-1955 đổi tên là đường Lê Văn Duyệt. (Huệ Khải chú).
([22]) [Sơn Nam 1981: 147]. Trong Sài Gòn năm xưa (Phần thứ tám – Tây đến rồi Tây lại đi), Vương Hồng Sển giải thích như sau: Xe kiếng dành cho khách phong lưu và người có tiền. Thùng xe bít bùng, cánh cửa gắn kính (kiếng) trong suốt cho có ánh sáng. Người Pháp gọi xe ấy là voiture malabare vì xà ích phần đông là người Mã Lai. [Lưu ý: Malabar là tên miền đất phía nam Ấn Độ, giữa rặng núi Sahyadri và biển Ả Rập. (Huệ Khải chú)]
([23]) [Sơn Nam 1971: 45].
([24]) [Sơn Nam 1971: VI].
([25]) [Đinh Văn Hạnh 1999: 37].
([26]) [Sơn Nam 2000: 58].
([27]) [Werner 1981: 56]; [Huệ Khải 2008a: 42, 91].
([28]) [Werner 1981: 13]; [Huệ Khải 2008a: 42, 92].
([29]) [Werner 1981: 72]; [Huệ Khải 2008a: 7, 55].
([30]) [Werner 1981: 4]; [Huệ Khải 2008a: 7, 55].
([31]) [Sơn Nam 1984: 157].
([32]) [Sơn Nam 1981: 140].
([33]) [Sơn Nam 1981: 158]. Bổ sung tài liệu của Sơn Nam, trong phần Minh họa (tr. 44-49), tôi chọn in lại một số ảnh tài liệu cho thấy phần nào bộ mặt Sài Gòn, nét sinh hoạt, và cách ăn mặc của dân Nam Kỳ vào đầu thế kỷ 20, thời Pháp thuộc. (Huệ Khải chú)
([34]) [Sơn Nam 1971: 135-146].
([35]) [Sơn Nam 1971: 140].
([36]) [Sơn Nam 1971: 148].
([37]) [Sơn Nam 1971: 142].
([38]) [Phạm Văn Sơn 1972: 178].
([39]) [Phạm Văn Sơn 1972: 59-60].
([40]) Thông thiên học (Theosophy) do bà Blavatsky (nhà huyền học Nga) cùng với đại tá Olcott (luật gia kiêm văn sĩ Mỹ) thành lập tại thành phố New York (bang New York) năm 1875.
([41]) Khởi sự đêm thứ Sáu 24-7-1925 (04-6 Ất Sửu), nhóm xây bàn lúc đầu chỉ có bốn vị: Tiền bối Cao Quỳnh Cư (1888-1929), thơ ký Sở Hỏa xa Sài Gòn, ngạch tham tá (commis), và vợ là Nguyễn Thị Hiếu (tức Hương Hiếu, 1887-1971); tiền bối Cao Hoài Sang (1901-1971), tham tá Sở Thương chánh Sài Gòn; tiền bối Phạm Công Tắc (1890-1959), thơ ký Sở Thương chánh Sài Gòn. [Huệ Khải 2008b: 29-30].
([42]) Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, có nơi gọi đàn cầu tiên ban kinh khuyến thiện là thiện đàn. Khoảng năm 1923, ở Nam Định, Vân Hương Thánh mẫu và các tiên thánh đã giáng cơ ban cho Kinh Đạo Nam. Năm 2007 Kinh này được nhà xuất bản Lao Động ấn hành (Nguyễn Thị Thanh Xuân dịch từ chữ Nôm ra quốc ngữ).
([43]) [Huệ Khải 2008b: 18-19].
([44]) Nổi tiếng hào phóng, ông Lê Quang Hiển là một trong những người đầu tiên xin khai hoang Đồng Tháp Mười, rồi trở thành một đại điền chủ giàu có bậc nhất tại quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc. Con rể ông là nhà báo Diệp Văn Kỳ (1895-1945). Ông Kỳ là con ông Diệp Văn Cương (tự Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa) người làng An Nhơn, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Ðịnh. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông Cương được học bổng sang Pháp và đậu tú tài. Về Việt Nam, ông dạy trường Chasseloup-Laubat, rồi được Toàn quyền Paul Bert đưa ra Bắc Kỳ và Trung Kỳ làm việc. Ở Huế, ông Cương dạy vua Ðồng Khánh (1864–1889) học, rồi cưới công chúa Thiên Niệm (Thiện Niệm?) sinh ra Diệp Văn Kỳ.
([45]) / / / / / / / . Lê Anh Minh căn cứ bản Hán-Việt, hiệu đính và viết chữ Hán.
([46]) [Huệ Lương 1963: 27].
([47]) [Nguyễn Trung Hậu 1957: 9].
([48]) Năm 1863, đời vua Tự Đức, tổ thứ mười lăm của Minh Sư là Đông Sơ rời Trung Quốc sang Việt Nam lập ngôi chùa mang tên Quảng Tế Phật đường ở tỉnh Hà Tiên. Công quả xây chùa có ông Ngô Cẩm Tuyền, sau tu lên phẩm đại lão sư (pháp danh Ngô Đạo Chương). Năm 1905, ông Ngô lập Ngọc Hoàng điện ở Đa Kao. Vì thiếu tiền, ông phải nhượng lại ngôi chùa còn dang dở. Từ năm 1982 chùa đổi tên là Phước Hải tự, thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nay ở số 73 Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1.
([49]) [Nguyễn Trung Hậu 1957: 9]. / / / .
([50]) Thật ra, lá cờ đạo Cao Đài có tên gọi chánh thức là cờ Tam thanh 三清, gồm ba màu vàng, xanh, đỏ, tương ứng ba phái trong Hội thánh Cửu trùng đài (Ngọc thanh 玉清, đỏ; Thượng thanh 上清, xanh; Thái thanh 太清, vàng).