Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

4/11. Xuân Lòng Tri Kỷ / LÒNG CON TIN ĐẤNG CAO ĐÀI



Xuân Lòng Tri Kỷ


Ở Trung Hoa vào thời Xuân Thu,([1]) Quản Trọng   (725-645 trước Công Nguyên) và Bào Thúc Nha    (?-644 trước Công Nguyên) là hai bạn thân. Hùn vốn đi buôn, lúc phân chia lời lãi Quản Trọng luôn tìm cách lấy nhiều tiền hơn. Có người trách Quản tham, nhưng Bào Thúc Nha bảo: “Anh Quản nhà nghèo, phải nuôi mẹ, lấy nhiều tiền hơn là đúng rồi.”
Thuở đầu làm nhiều việc, Quản Trọng thường thất bại. Có người chê Quản bất tài, nhưng Bào Thúc Nha biện hộ: “Chẳng qua anh Quản chưa tới thời mà thôi.”
Ra chiến trường, Quản Trọng hay tìm cách lùi lại phía sau. Có người cười Quản chết nhát, nhưng Bào Thúc Nha lại bênh: “Anh Quản còn mẹ già, nên phải cố giữ toàn mạng sống để nuôi mẹ. Đó là hiếu.”
Bào Thúc Nha theo phò công tử Bạch. Về sau công tử Bạch làm vua, xưng Tề Hoàn Công. Được Bào Thúc Nha tiến cử với Tề Hoàn Công, Quản Trọng nắm chức tể tướng (cũng như thủ tướng ngày nay), ra tài giúp vua Tề làm bá chủ các chư hầu. Khi Quản sắp chết, Tề Hoàn Công hỏi có nên cử Bào Thúc Nha làm tể tướng thay vào vị trí của Quản không, thì Quản bác liền. Quản nói làm tể tướng phải giỏi chánh trị, mà chánh trị vốn hay trí trá; Bào Thúc Nha là bậc quân tử, yêu điều thiện, ghét điều ác, tà chánh phân minh, không thể làm chánh trị được, vậy chớ nên giao chức tể tướng.
Có người trách Quản vong ân bạc nghĩa với bạn, thì Bào Thúc Nha đính chính: “Đó là anh Quản biết lấy nghĩa công đặt trên tình riêng, vì nước chứ không vì bạn. Chẳng uổng công ta đã tiến cử anh ấy với vua.”
Những lời Bào Thúc Nha thanh minh cho Quản thì Quản đều biết rõ. Cho nên Quản rất cảm kích, tán thán rằng: “Sinh ngã giả, phụ mẫu; tri kỷ giả, Bào Thúc dã. ([2]) (Sinh ra ta là cha mẹ ta, mà hiểu ta là Bào Thúc Nha.)
Câu nói nổi tiếng của Quản Trọng đã đi vào sử sách trong hai ngàn sáu trăm năm nay. Cũng từ câu nói đó, hai chữ tri kỷ   ở Trung Hoa và Việt Nam trở thành một từ rất đẹp. Sống trên đời này ai có được bạn tri kỷ thì sung sướng, hạnh phúc vô cùng, vì đó là người hiểu được hết tâm tư, tình cảm sâu kín của mình.
Ở Sài Gòn trước kia có nhà văn Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), tính đến cuối đời đã viết và dịch được 122 tác phẩm. Ở Nha Trang có ông thầy giáo Châu Hải Kỳ (1920-1993). Hai vị chưa hề gặp nhau, chưa thư từ cho nhau. Tuy nhiên, chỉ đọc hầu hết các sách của ông Hiến Lê mà ông Hải Kỳ có thể viết ra một quyển sách ba trăm trang, trong đó ông Hải Kỳ nói rõ về con người và cuộc đời ông Hiến Lê y như thể đã gần gũi, thân thiết nhau từ thuở nào rồi.
Khi ông Hải Kỳ vượt gần bốn trăm năm mươi cây số từ Nha Trang vào tận Sài Gòn đưa bản thảo cuốn sách cho ông Hiến Lê đọc, ông Hiến Lê cảm động lắm. Trong Hồi Ký ông Nguyễn Hiến Lê viết:
“Tôi ngạc nhiên thấy ông đọc đủ các tác phẩm của tôi (non một trăm cuốn) mà đọc rất kỹ nên biết rõ về đời tôi còn hơn một số người thân của tôi nữa mặc dầu chưa hề gặp tôi lần nào.” ([3])
Ông Châu Hải Kỳ quả xứng đáng là tri kỷ của nhà văn Nguyễn Hiến Lê vậy.
Văn học còn kể nhiều chuyện thú vị làm đẹp thêm cho tình tri kỷ. Chẳng hạn, nhân vật Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du (1766-1820). Mới gặp Kiều lần đầu, Từ Hải đã xem nàng là tri kỷ hiếm có của mình:
Nghe lời vừa ý gật đầu,
Cười rằng: “Tri kỷ trước sau mấy người!”
Sau này, gặp Kiều lần nữa, Từ Hải lại vẫn thừa nhận Kiều chính là hồng nhan tri kỷ của mình:
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?”
Người Hoa và người Việt xưa nay có sở thích dùng thư pháp để trang trí phòng ốc. Hai chữ tri kỷ vì thế cũng đi vào thư pháp. Nhiều năm trước, chúng tôi tìm được một bức thư pháp viết chân phương hai chữ tri kỷ rất đẹp, bên dưới đề thêm hai câu thơ ngũ ngôn:
Hải nội tồn tri kỷ,
Thiên nhai nhược tỷ lân.([4])
(Trong nước hãy còn người tri kỷ,
Chốn xa xôi cũng tợ như gần.)
Tất cả những mẩu chuyện vừa rồi tưởng cũng tạm đủ để giúp chúng ta cảm nhận thêm ý nghĩa thâm thúy, sâu xa, tôn quý của hai chữ tri kỷ. Nhưng câu chuyện về hai chữ tri kỷ hôm nay không chỉ có vậy.
Thật thế, kể từ Bào Thúc Nha và Quản Trọng thời Xuân Thu cho tới thế kỷ 20 là hơn hai ngàn sáu trăm năm, tình tri kỷ tuy quý hiếm rất mực nhưng dẫu sao vẫn mới chỉ là tri kỷ giữa con người với con người trên chốn trần gian sớm nắng chiều mưa mà thôi. Phải từ nửa sau thế kỷ 20 trở đi, qua cơ bút Cao Đài, tình tri kỷ mới được biết đến, mới được cảm thụ như một tình cảm thiêng liêng, hy hữu, rất hy hữu, bởi lẽ đây chính là tình tri kỷ giữa con người trần gian với Tiên Thánh.
Sẽ có người giật mình khi thoạt nghe nói rằng con người phàm tục mà có thể là tri kỷ của Tiên Thánh. Giật mình âu cũng dễ hiểu. Thật vậy, ở đời, ngày ngày sống gần bên nhau, trải mấy mươi năm, chắc gì mọi người đã hiểu hết bụng dạ nhau. Nguyễn Du há chẳng nói “Tri kỷ trước sau mấy người” là gì! Trong khi ấy Tiên Thánh là các Đấng thiêng liêng vô hình, kẻ hữu hình chưa từng nhìn thấy bóng dáng thì làm sao dám nói có tình tri kỷ?!
Vậy mà vẫn có tri kỷ đấy. Nếu con người trần gian chưa dám tin và không dám “phạm thượng” nghĩ rằng mình có thể là tri kỷ của các Đấng, thì chính các Đấng đã biết bao lần tha thiết gọi khách tục cõi trần này là tri kỷ của Thánh Tiên, cũng như đã muôn vạn lần các Đấng đến thế gian, tìm kiếm tri kỷ trong số những người trần tục.
Đầu tháng 12 năm 1972, tại Minh Lý Thánh Hội ([5]) đã có một trong nhiều bằng chứng rất cảm động về tình tri kỷ giữa hai cõi sắc không. Đó là tình tri kỷ giữa Đức Vạn Hạnh Thiền Sư và đạo trưởng Định Pháp Minh Thiện (1897-1972).([6])
Trong tiền kiếp tại thế, Vạn Hạnh Thiền Sư sống vào đời Tiền Lê và làm quốc sư đời nhà Lý nước ta (thế kỷ 11). Chín trăm năm sau, khi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ra đời, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư là Đấng thiêng liêng vô hình vô ảnh, mượn đàn cơ và đồng tử để trở về Việt Nam dạy đạo qua ngọn linh cơ. Minh Lý Thánh Hội và một số thánh sở Cao Đài nhiều lần được Đức Thiền Sư ban ơn, giáng cơ giáo hóa.
Chuyện xảy ra vào cuối năm 1972, tiền bối Minh Thiện bảy mươi sáu tuổi, là siêu tịnh sư của Minh Lý Thánh Hội, đang mang trọng bệnh để rũ sạch nghiệp thân lần cuối cùng trước khi thảnh thơi trở về cõi Phật.
Đầu hôm đêm ấy, trong lúc tiền bối Minh Thiện ngọa bệnh, không hầu đàn được, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư giáng cơ và giảng cho môn sanh Minh Lý một thời pháp. Cuối thời pháp, Đức Thiền Sư gọi tên một vị đang hầu đàn ([7]) và dặn dò như sau:
Bần Tăng nhờ đạo hữu Pháp Ấn cho Bần Tăng một ly bạch thủy để Bần Tăng họa phù trợ lực người bạn đạo chí thân …”
Họa phù vào ly nước lạnh xong, Đức Thiền Sư dạy tiếp:
“Đạo hữu để lại giùm nơi Thiên Bàn. Sau khi xả đàn, đem cho đạo hữu Định Pháp Minh Thiện uống và nói rằng món quà đặc biệt này của Vạn Hạnh Thiền Sư tặng người bạn tri kỷ.” ([8])
Đối với tín đồ Cao Đài, việc Ơn Trên ban bố Thiên điển vào nước hay trái cây để hộ trì cho người bệnh xưa nay vốn là sự không lạ. Có điều, chính lời của Đức Thiền Sư ân cần dặn dò mới là điều làm chúng ta xúc động.
Sau khi tiền bối Minh Thiện quy thiên, ngày 07-12 Nhâm Tý (10-01-1973) Đức Chí Tôn giáng đàn tại Minh Lý Thánh Hội, ban trao quyền pháp cho Ngài là Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông Pháp Chủ. Rồi đến ngày 27-02 Quý Sửu (31-3-1973), tại Bác Nhã Tịnh Đường ở Long Hải,([9]) Đức Vạn Hạnh Thiền Sư giáng đàn cho biết:
“Hôm nay Bần Tăng còn có thêm một nhiệm vụ khác nữa, đó là hộ trì Bác Nhã Thiền Sư vừa hoàn kim thân đến nhập cơ tiền để có luận đàm đạo sự cùng chư đạo hữu.”
Hôm ấy tái ngộ môn sanh Minh Lý, Đức Bác Nhã Thiền Sư đã bày tỏ tình cảm của Ngài đối với những người đã từng một thời sát cánh với Ngài tu học, hành đạo tại thế. Khi nhắc đến đồng đạo, Đức Thiền Sư hai lần gọi là tri kỷ:
Thọ Thiên sắc về nơi thiền thất,
Sứ mạng dành đạo đức hoằng dương.
Huyền vi trải khắp tứ phương,
Độ người thiện chí lên đường thiện căn.
Tình giao hữu đây hằng ghi nhớ,
Nghĩa đạo đồng bao thuở quên nhau.
Chợt nhìn biển rộng non cao,
Tạ lòng tri kỷ gởi trao mấy vần.
. . .
Xưa tri kỷ vui chung rượu cúc,
Nay đạo đồng để chút lời khuyên,
Phù sanh một kiếp không riêng,
Vô thường bất đoạn căn Tiên phải gìn.([10])
Câu chuyện về Đức Vạn Hạnh Thiền Sư và Đức Bác Nhã Thiền Sư chung quanh hai chữ tri kỷ gợi cho chúng ta một câu hỏi lớn: Khi nào thì con người trần gian được Ơn Trên, được các Đấng thiêng liêng coi là tri kỷ của các Đấng?
Trả lời câu hỏi này, cần nhớ rằng tri kỷ có hai nghĩa, và cả hai ý nghĩa này đều tìm thấy trong thánh ngôn thánh giáo Cao Đài.
Trước hết, hãy nói về nghĩa thứ nhất. Tri kỷ của mình là người hiểu mình, hiểu cả chí hướng, tâm sự của mình, và sẵn sàng với mình trong mọi việc. Thậm chí còn hơn cả sẵn sàng, vì từng có không ít người vui lòng hy sinh thân mạng cho tri kỷ của mình. Theo nghĩa này, ai xứng đáng là tri kỷ của các Đấng thánh tiên?
Phải chăng đó là những người hiểu biết công việc của các Đấng, chia sẻ hoài bão, tâm tư của các Đấng, và sẵn lòng hy sinh để tiếp sức cùng các Đấng thực hiện những công việc mà các Đấng thiêng liêng đang gánh vác?
Thực vậy, tri kỷ của Tiên Thánh là như thế. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ra đời, cứu cánh của Đại Đạo về mặt nhân sinh là giải khổ cho thế gian, xây dựng lại cõi đời thành một thiên đàng hạnh phúc. Lý tưởng ấy được thực thi trong tinh thần Thiên nhân hiệp nhất. Có sức Trời mà cũng cần cả sức người.
Khi Đức Chí Tôn xuống trần mở đạo Cao Đài, Ngài lập đại nguyện rằng nếu Đạo không thành thì Thượng Đế không trở về Bạch Ngọc Kinh. Lời đại nguyện đó chấn động cả cõi Trời, thế nên Phật Tiên Thánh Thần hàng hàng lớp lớp tùng theo Đức Chí Tôn để giúp Thầy mở đạo, hoằng đạo.
Nhưng muốn mở đạo và hoằng đạo thì cần phải có xác phàm để làm phương tiện. Do đó rất nhiều bậc Đại Tiên, Bồ Tát đã chuyển kiếp, mượn thân tứ đại làm người Việt Nam trong thời nước mất nhà tan để dựng gầy mối quốc đạo cho dân tộc.
Như thế, khi Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, các Đấng thiêng liêng không thể không mượn sức người để hoằng giáo độ đời. Và ai còn thân xác, trí tuệ, mà biết đem đời mình, tim óc mình, dốc hết sức mình tự nguyện làm phương tiện để Trời Phật mượn nhờ truyền đạo thì công đức ấy rất lớn, công quả ấy rất dày.
Tuy nhiên không phải người trần gian nào cũng biết hy hiến đời mình cho Ơn Trên mượn làm phương tiện trong Tam Kỳ Phổ Độ. Trái lại, phải có căn duyên tiền kiếp, phúc phận sâu dày thế nào đó, cho nên mới tự nguyện nhận lãnh vai tuồng cộng sự với Trời hành đạo giúp đời.
Có nhận thức được như vậy mới hiểu rõ vì sao Đức Đại Tiên Ngọc Lịch Nguyệt tán thán rằng:
Thiệt quý hóa phúc hồng hiếm có,
Bước dặm trường đi đó đi đây,
Phổ thông giáo lý Đạo Thầy,
Thiêng Liêng nương đó giãi bày thiệt hơn.([11])
Các vị tiền bối Cao Đài suốt một đời tại thế trải thân hành đạo độ đời, khi bỏ xác phàm trở về cõi Tiên vẫn không nguôi lòng, vẫn muốn còn được mượn thân phàm xác tục để giúp Thầy hoằng đạo.
Đại Tiên Ngọc Lịch Nguyệt là một trường hợp như thế. Đức Đại Tiên sinh thời thế danh là Lê Văn Lịch (1890-1947), tiền kiếp là Đại Tiên nơi Bạch Ngọc Kinh. Khi Đức Thượng Đế lâm trần lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tá danh Cao Đài Tiên Ông thì Đại Tiên cũng lập đại nguyện xuống trần, chuyển kiếp về làng Long An, quận Cần Giuộc, để làm nhục tử của Ngài Lê Văn Tiểng (1843-1913).
Thuở đạo Cao Đài còn rất sơ khai, chưa hình hiện, thì tiền bối Lê Văn Lịch đã sớm trở thành một trong những đại môn đồ đầu tiên của Đức Chí Tôn vào năm ba mươi bảy tuổi. Từ đó, cho đến lúc bỏ xác về trời, suốt hai mươi mốt năm (1926-1947) tiền bối Ngọc Lịch Nguyệt đã một dạ trung kiên, hy thân phụng Thiên sự dân. Thế mà, khi trở lại Bạch Ngọc Kinh, Ngài vẫn còn tiếc là không còn xác thân hữu hình để dễ bề lập công quả. Muốn tiếp tục hành đạo, phải nương theo đàn em qua các đàn cơ nơi cõi thế.
Mùa xuân năm Ất Tỵ, Đức Ngọc Lịch Đại Tiên tâm sự:
Còn ở tục dễ thừa hành đạo,
Nương cõi đời giả tạo cái chân,
Có nhiều phương tiện xa gần,
Để mà khuyến thiện dìu nhân trở về.
Như Bần Đạo lỡ bề thoát tục,
Cõi vô hình mấy lúc tiếc thương,
Tùng Tiên Phật, chung một đường,
Muốn dìu sanh chúng phải nương muội hiền.([12])
Lời dạy này của Đức Đại Tiên giác ngộ cho chúng ta hãy biết quý thời gian và mạng sống của mình ở thế gian để chăm lo tu học, siêng năng hành đạo. Đồng thời, lời dạy này còn soi sáng cho chúng ta hiểu thêm ý nghĩa thâm sâu của bốn chữ Thiên nhân hiệp nhất và đó chính là lý do vì sao người phàm nếu biết chọn con đường cộng sự với Ơn Trên để hoằng giáo độ đời thì người phàm đã tự mình phá vỡ sự phân cách tục tiên, phàm thánh để trở nên tri kỷ của thiêng liêng các Đấng.
Đức Đại Tiên Ngô Minh Chiêu (1878-1932), vị đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông, đã từng thay mặt toàn thể các vị tiền bối khai Đạo quá vãng mà bày tỏ lòng ưu ái, trìu mến đối với lớp đàn em hôm nay đang tiếp nối con đường của các ngài buổi trước.
Đức Ngô Đại Tiên dạy:
“Tuy rằng Tiên cảnh, dương trần có cách biệt nhưng tình thương đương nhiên của Tạo Hóa vẫn đồng nhứt mỗi người mỗi việc trong sứ mạng thế Thiên hành hóa. Sự hiện diện của lớp người hiện tại làm chúng Tiên Huynh hoan hỷ và cảm xúc vô cùng, muốn tặng nhau những gì để thể hiện lòng tri kỷ…”.([13])
Những lời chứa chan tình cảm ấy được ban trao vào dịp Tết nguyên đán Tân Hợi. Đúng một năm sau, ngay vào đêm giao thừa năm Nhâm Tý, Đức Tôn Sư Đông Phương Lão Tổ lại đến. Sau khi giảng xong thời giáo pháp khai xuân trên ngọn linh cơ, Đức Tôn Sư đã thương yêu gởi đến những khách tục trần gian như sau:
“Đầu xuân Nhâm Tý, Bần Đạo đã ghi mấy dòng đạo lý vừa qua, để tặng các hàng hướng đạo các nơi, để tặng những bạn tri âm, những người tri kỷ trong sứ mạng thế Thiên hành hóa, giáo dân vi thiện.” ([14])
Đến đây, tuy chưa thật sự đầy đủ và trọn vẹn, nhưng khi ôn lại lời dạy của các Đấng như vừa rồi chúng ta đã có thể lãnh hội được ý nghĩa thứ nhất của hai chữ tri kỷ trong thánh ngôn thánh giáo Cao Đài.
Về ý nghĩa thứ hai thì sao? Người đời hay nói tri bỉ tri kỷ    . Tri bỉ là biết người khác; tri kỷ là biết chính mình. Theo nghĩa này, con người trần gian nếu biết mình là ai, biết nhiệm vụ hay sứ mạng của mình ở cõi đời này là gì, biết mình phải làm gì để hoàn thành sứ mạng vi nhân (sứ mạng mang thân làm kiếp con người) thì người trần gian ấy được Ơn Trên gọi là tri kỷ.
Thông thường con người ít khi có thể tri kỷ, nên ít khi biết được chính mình. Nhưng trong Kỳ Ba đại ân xá, hằng hà sa số thánh ngôn thánh giáo Cao Đài không ngừng khải ngộ, khơi sáng thiên lương bổn giác, nhờ thế mà ngót tám mươi năm qua đã rất nhiều người có thể bừng tỉnh để biết chính mình, để tri kỷ và chọn con đường tu học, hành đạo để vừa giúp mình hoàn thành sứ mạng làm người, vừa phụ lực cùng các Đấng thiêng liêng trợ giúp cho những ai chưa tri kỷ sẽ cũng kịp thời tri kỷ.
Khi hiểu thêm ý nghĩa của tri kỷ là biết mình để tìm cho mình con đường tu học và hành đạo giúp đời, chúng ta nhận ra rằng vì sao những lời thiết tha mà các Đấng thiêng liêng thức tỉnh chúng sanh cũng chính là tiếng gọi tâm huyết để tìm người tri kỷ.
Chẳng hạn, mùa xuân năm Đinh Mùi, Đức Thiện Pháp Nguyễn Bửu Tài, một tiền bối của buổi đầu mở đạo Cao Đài, khi từ cõi thiên thượng trở về trần gian đã cất tiếng gọi rằng:
Hỡi ai, ai đó, ai tri kỷ,
Quảy gánh đồ thơ đến động đào! ([15])
Động đào tức là đào nguyên, cõi Tiên. Quảy gánh đồ thơ đến động đào tức là tìm con đường tu tiên, học làm tiên.
Mùa xuân năm Tân Hợi, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư giáng trần cũng để tìm người tri kỷ truyền trao chân lý, tức là chánh pháp giải thoát. Đức Thiền Sư dạy:
Đâu quản công phu đến cõi trần,
Trong kỳ mạt hạ độ sanh dân.
Tiếc vì chưa có người tri kỷ,
Trao tận cơ mầu của lý chân.([16])
Đạo Cao Đài mở ra cho chung nhân loại, nhưng dân tộc Việt Nam lại là dân tộc được chọn để làm vai trò tiền khai, gieo mầm ươm hạt. Cao Đài rồi sẽ mở rộng khắp thế gian, nhưng trước hết sẽ là quốc đạo của dòng giống Lạc Hồng. Cho nên sứ mạng xây dựng đạo nghiệp Kỳ Ba còn nặng trĩu cả một khối tình non nghĩa nước. Vậy, ai sẽ là tri kỷ để góp sức mình, tim óc mình cho cơ đồ dân tộc?
Câu hỏi này vào mùa xuân Canh Tuất đã được Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt nêu lên, cũng là tấm lòng ký thác của một danh tướng ngày xưa gởi trao cho hậu thế hôm nay:
Cát bụi mịt mù khắp thế gian,
Hỡi ai tri kỷ gởi đôi hàng.
Non sông một gánh còn dang dở,
Đạo nghiệp muôn dòng quyết đảm đang.([17])
Ôn học thánh ngôn thánh giáo Cao Đài, chúng ta nhận ra rằng Ơn Trên đã rất nhiều dịp mượn cơ bút khai xuân để thức tỉnh con người hãy tri kỷ và hãy biết làm người tri kỷ của Ơn Trên.
Tại sao tiếng gọi tri kỷ lại thường đến vào mùa xuân? Vì xuân là khởi đầu của một niên trình thay cũ đổi mới, là niềm hy vọng tái tạo và tăng trưởng sau một chặng đường quá khứ. Cho nên những ai chưa tri kỷ thì hãy nhân xuân về mà tri kỷ để làm mới cuộc đời mình. Còn những ai đã tri kỷ rồi thì cũng nhân xuân về mà tiến đức tu nghiệp để đã đi thì đi xa hơn và vững vàng hơn, không phải ngậm ngùi lùi bước, tụt lại phía sau.
Thánh giáo Cao Đài vì thế có nhắc lại câu nói của hiền thánh ngày xưa: Nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân.([18]) Đã hiểu ý xuân là tái tạo thì mỗi ngày mỗi đổi mới đời mình, đã mới lại càng mới hơn nữa.
Mới đây không phải là lo sắm quần áo mới, mua sắm mới hay tân trang xe cộ, nhà cửa như thế thường ham muốn. Mới đây là làm mới lại chính con người mình, nội tâm mình, như lời Đức Chí Tôn đã dạy vào mùa xuân Canh Tuất:
“Mỗi độ xuân về là mỗi lần các con tăng trưởng và cứ thế trong khoảng thời gian này các con làm thế nào để mang lại cho mình, cho mọi người một nghiệp dĩ khả quan, tinh tiến để không uổng đi sự sống còn trước khi bước vào nẻo tử.
“(…)
“Đại khái xuân đời, cảnh vật có chi các con! Cành hoa chớm nở tươi xinh, các con nâng niu cành lá, vun tưới gốc cây, ngửi mùi thơm trong nhụy. Sao các con không vun tưới cội lành Đạo cả, nâng niu sang sửa chơn tâm cho thật tươi nhuận sáng suốt để rồi ngửi lấy đạo vị nhiệm mầu tự lòng con khai phát?” ([19])
Từ lời dạy của Đức Chí Tôn, chúng ta ngẫm nghĩ thêm và nhận thức rằng nhân loại hằng bao thế kỷ đã từng thưởng xuân, vui xuân nhưng không phải tất cả đều biết được cái nghệ thuật cao siêu nhất của việc thưởng xuân, vui xuân bằng tâm tình tri kỷ.
*
Hôm nay, qua câu chuyện cuối năm Xuân Lòng Tri Kỷ chúng ta có dịp đàm đạo với nhau về tình tri kỷ giữa khách tục và Tiên gia. Đề tài này cũng có cơ duyên tạm khép lại cánh cửa hội trường thuyết minh giáo lý của Cơ Quan trong mấy ngày xuân mới. Trước khi tạm chia tay, có lẽ mọi người chúng ta cũng nên dành chút thời gian để nhìn lại một chặng đường dài đã cùng nhau trải qua.
Tính đến nay, đạo Cao Đài sắp tròn tám mươi năm tuổi, và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý cũng sắp tròn cái tuổi bốn mươi. Trên con đường bằng phân nửa chiều dài lịch sử của Đại Đạo, Cơ Quan được ban trao sứ mạng đặc nhiệm là phổ thông giáo lý để làm sao …
Cho người thông cảm cùng người,
Dẹp tan sắc phái phục hồi tình thương.([20])
Với đặc nhiệm hóa giải phân ly và hàn gắn rạn nứt, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý từng được Ơn Trên ví như cây đàn, và nhân sự Cơ Quan ví như những nhạc công, như người khảy đàn, tùng theo các Đấng thiêng liêng để dạo lên khúc nhạc tri âm, tri kỷ.
Hình ảnh cây đàn và tiếng đàn tri âm, tri kỷ đã sớm được Đức Quan Âm Như Lai nói tới ngay khi Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý khai mạc mới vừa hơn một tháng:
Chung tay lo khảy nhịp đờn,
Tri âm giáo lý chớ sờn chớ lơi.([21])
Hai năm sau đó, Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo lại nhắc đến hình ảnh Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý là cây đàn mà nhân sự Cơ Quan chính là những nhạc công:
Ví nhạc công ôm đờn nhấn phiếm,
So tơ đồng đúng điểm cung thương,
Gảy lên những khúc can trường,
Lòng thanh cao lẫn du dương bổng trầm.
Cơ Quan ấy danh cầm huyền diệu… ([22])
Thực sự thì, trong non bốn mươi năm qua, những việc Cơ Quan đã làm được hãy còn quá khiêm tốn, quá nhỏ nhoi so với kế hoạch và sứ mạng trọng đại do Ơn Trên giao phó. Thế nên, từ trước tới nay, các cấp chức vụ và nhân viên Cơ Quan không một ai dám có lòng cống cao ngã mạn, không một ai dám khinh suất tự nhận Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý là “danh cầm huyền diệu”.
Vì vậy, cần phải nói rõ rằng câu “Cơ Quan ấy danh cầm huyền diệu” vốn là lời Đức Giáo Tông dạy bảo, thương yêu phó chúc.
Suy gẫm lời dạy của Đức Giáo Tông, chúng ta có thể hiểu rằng, sở dĩ Cơ Quan được Đức Giáo Tông ưu ái gọi là “danh cầm huyền diệu” vì lẽ Cơ Quan là công cụ, là phương tiện cuối cùng do Đức Chí Tôn lập ra để thực thi kế hoạch của Trời (Thiên cơ).
Hơn thế nữa, mỗi khi nhớ câu “Cơ Quan ấy danh cầm huyền diệu”thì từng thành viên của Cơ Quan lại tâm tâm niệm niệm tự nhắc nhở rằng Đức Giáo Tông đã đưa ra tiêu chuẩn chất lượng để toàn thể các cấp nhân viên Cơ Quan phấn đấu, nỗ lực, cố gắng không ngừng, sao cho đạt được tầm mức Ơn Trên kỳ vọng thì mới mong hoàn thành được sứ mạng do Ơn Trên ban trao.
Trở lại với hình tượng cây đàn. Phàm, đánh đàn phải có người biết nghe đàn. Người chịu nghe tiếng đàn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý phải là người đồng thanh khí, đồng điệu với Cơ Quan trong tình liên giao tu học và hành đạo.
Đức Giáo Tông dạy:
Bậc giác ngộ xây nền móng Đạo,
Trí thông minh hoài bão Tam Kỳ,
Liên giao mở lối tương tri,
Bá Nha âu phải Tử Kỳ hòa âm.([23])
Năm Quý Mùi sắp hết. Tết Giáp Thân đang ngấp nghé bên thềm. Thêm mùa xuân này nữa, Cơ Quan đã tiến đến rất gần điểm mốc bốn mươi năm của đường dài phổ thông giáo lý. Từ năm 1965 đến nay, những gì Cơ Quan đã làm được hay chưa làm được cần có thời gian để tổng kết và đánh giá. Nhưng có một sự thật hiển bày, ấy là trong ngót bốn thập niên qua, tiếng đàn của Cơ Quan đã không bao giờ là tiếng đàn lạc lõng hay lẻ loi trong sự ơ thờ của đồng đạo, đồng bào gần xa.
Với khả năng hiện hữu và trong hoàn cảnh cho phép, nhờ ơn lành hộ trì, dẫn dắt của Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng, tất cả mọi người chúng ta đã nương cậy nhau để … như lời dạy của Đức Lý Thái Bạch và Đức Đông Phương Chưởng Quản:
Cầm đờn nhấn phím rao đờn,
Bản bài dao động cung thương thâm trầm.
Đờn cho biết tri âm tri kỷ,
Đờn cho tường chơn lý mỵ tà,
Tiếng đờn vang khắp gần xa,
Cho người thức tỉnh nam kha giấc nồng.([24])
Lẽ thường, dịp hàn huyên cuối năm để ôn tình tri kỷ tri âm, người đời thường mời nhau chén trà thơm, chung rượu nồng, hoặc tặng nhau chút lễ vật gọi là. Buổi nói chuyện hôm nay trái lại chỉ có văn chương, thơ phú để tạ ơn toàn thể quý đạo tâm, đạo hữu suốt một năm qua đã bền bỉ gắn bó với hội trường thuyết minh giáo lý của Cơ Quan. Nhưng chúng tôi tin chắc rằng tất cả mọi người chúng ta đều hoan hỷ, khi nhớ đến lời dạy yêu thương của Đức Ngô Đại Tiên vào một mùa xuân trước:
Tròi trọi lấy chi để tặng nhau,
Không hoa, không quả, rượu bồ đào.
Chỉ tình luyến ái lòng tri kỷ,
Mượn mấy vần thơ để tặng nhau.([25])
Thế thì, đê đầu cầu xin Đức Vạn Hạnh Thiền Sư đại xá, kính cẩn phỏng theo lời thơ năm nào của Đức Thiền Sư để gởi trao đến toàn thể quý vị rằng:
Tạm biệt chia tay buổi cuối đông,
Mặt vui gặp mặt thật hòa đồng.
Đôi câu thơ phú còn lưu lại,
Tri kỷ cùng nhau một tấc lòng.([26])
Xin trân trọng.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 06-01-2004

Huệ Khải


Bài nói chuyện tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 9.00 giờ sáng 15-12 Quý Mùi (thứ Ba 06-01-2004).
([1]) Tiếp theo thời Xuân Thu   (722-481 trước Công Nguyên) là thời Chiến Quốc   khoảng từ thế kỷ 5 trước Công Nguyên cho tới khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc vào năm 221 trước Công Nguyên.
([2])    ,   ;       .
([3]) Nguyễn Hiến Lê. Hồi Ký. Hà Nội: Nxb Văn Học, 1993, tr. 506.
([4])      ,      .
([5]) Tức Tam Tông Miếu, số 82 đường Cao Thắng, phường 4, quận 3.
([6]) Tiền bối họ Tôn, nhưng khai sinh ghi Nguyễn Văn Miết. Tiền bối có bút danh Nguyễn Minh Thiện, là vị trụ trì đời thứ ba của Tam Tông Miếu. Vị trụ trì đầu tiên là Âu Kiệt Lâm (1896-1941), pháp danh Minh Chánh, cũng gọi Âu Minh Chánh. Vị trụ trì đời thứ hai là Minh Truyền (có công làm lịch Tam Tông Miếu nổi tiếng khắp miền Nam trước đây). Xem thêm: Đại Cơ Huờn, Ngài Minh Thiện – Cuộc Đời Và Đạo Nghiệp. Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Cao Đài liên kết Nxb Tôn Giáo (Hà Nội, 2010).
([7]) Là tiền bối Pháp Ấn, thánh danh Khai Ngộ, thế danh Nguyễn Văn Châu (sinh ngày 26-5-1916), lần lượt làm Chủ Trì (1982), Hiệp Lý (1983), rồi Tổng Lý của Minh Lý Thánh Hội. Sau khi quy thiên (25-9-2001), tiền bối đắc quả vị là Thành Sở Quan Chơn Nhơn.
([8]) Minh Lý Thánh Hội, 04-11 Nhâm Tý (09-12-1972).
([9]) Ở Việt Nam kinh sách nhà Phật vẫn viết là bát nhã (thay vìbàn nhược, ban nhược   ). Riêng tiền bối Minh Thiện chủ trương viết bác nhã cho nên đến nay môn sanh Minh Lý vẫn viết là bác nhã.
([10]) Bác Nhã Tịnh Đường, 27-02 Quý Sửu (31-3-1973).
([11]) Vĩnh Nguyên Tự, 07-01 Ất Tỵ. (08-02-1965).
([12]) Vĩnh Nguyên Tự, 07-01 Ất Tỵ. (08-02-1965).
([13]) Thánh thất Nam Thành, 01-01 Tân Hợi (27-01-1971).
([14]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 30-12 Tân Hợi (14-02-1972).
([15]) Cao Đài Hội Thánh (Dương Đông, Phú Quốc), 14-3 Đinh Mùi (23-4-1967).
([16]) Minh Lý Thánh Hội, 17-01 Tân Hợi (11-02-1971).
([17]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 14 rạng 15-02 Canh Tuất (21 rạng 22-3-1970).
([18])   ,    ,    .
([19]) Thánh thất Nam Thành, 01-01 Canh Tuất (06-02-1970).
([20]) Bài Cầu Nguyện của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Đức Lê Đại Tiên, Thiên Lý Đàn, 12-02 Bính Ngọ (04-3-1966).
([21]) Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý, 19-02 Ất Tỵ (21-3-1965).
([22]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 01-3 Đinh Mùi (10-4-1967).
([23]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-7 Bính Ngọ (30-8-1966).
([24]) Tại Hườn Cung Đàn, 14 rạng 15-11 Quý Mão (29-12-1963), Đức Lý Thái Bạch dạy bộ phận Hiệp Thiên Đài như sau:
Cầm đờn nhấn phím rao đờn,
Bản bài dao động cung thương thâm trầm.
Đờn cho biết tri âm tri kỷ,
Người lại đờn hoan hỷ cùng nhau,
Đờn đi nhơn loại nhớ nào,
Tiếng đờn như thể lời chào thiêng liêng.
Ba năm sau, tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-3 Bính Ngọ (05-4-1966), Đức Đông Phương Chưởng Quản đã chỉnh lại ba câu thơ dưới như dẫn trên.
([25]) Thánh thất Nam Thành, 01-01 Tân Hợi (27-01-1971). Rượu bồ đào là rượu nho, rượu chát, rượu vang.
([26]) Nguyên bản hai câu thơ 1-2 của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy tại Minh Lý Thánh Hội ngày 25-9 Canh Tuất (04-10-1970) như sau:
Tạm biệt chia tay cõi sắc không,
Mặt chưa gặp mặt vẫn hòa đồng.