Trích THÁNH ĐỨC CHƠN
KINH
TIẾP ĐIỂN
THI
Lý chánh tu tâm dưỡng chí thanh,
Giáo khai Đại đạo chọn nhơn lành.
Tông truyền nhứt bổn kỳ Tam hội,
Giáng dạy tu thân đạo nhựt hành.
Chào chư sĩ.
BÀI
Những mong tế độ ([5])
nơi trần,
Noi đường chánh giáo mới gần Ngọc kinh.([6])
Nghĩ thảm bấy ([7])
sanh linh nguơn hạ,
Xót xa thay nhơn quả nhập nhồi.([8])
Pho kinh Thánh đức chưa rồi,
Cầu xin Từ phụ điểm hồi tâm nhơn.([9])
THI
Tâm nhơn ([10])
chuyển lại nẻo tâm thành,
Học tập sớm khuya đạo đức hành.
Nương máy huyền vi ([11])
về với Đạo,
Cậy cơ giáo hóa cứu nhơn sanh.
Mới đắc thành,
Đạo dương danh,([12])
Hết cạnh tranh.
Cạnh tranh nhơn quả thêm nhồi,
Đời tàn xáo lộn đời ôi có tường.([13])
Than thế sự tang thương biến động,
Chưa hết sầu thấy bóng Thái công,([14])
Quỳ tâu mấy vị tiên đồng,([15])
Rằng nay có chiếu Thái công đến mời.
THI
Đến mời Lão xuống chốn Kỳ Sơn,([16])
Dạy phép tu hành đặng cứu nhơn.
Mây tỏa trổi lần chơn giá hạc,([17])
Xuống cơ gầy nhịp mấy dây đờn.
Lão giảng dạy về Đạo nhựt thường hành.
Đạo nhựt thường
hành
Ở cõi phàm gian nhiều lý tưởng,
nào tôn giáo, văn chương, khoa học, nên con người mảng mê say xu hướng theo lối
tân tạo của đời. Vì vậy mà tinh thần hao kém, sa đắm nhơn dục mà hủy mình với
sắc tài tửu khí,([18]) danh lợi thế quyền
([19]). Rồi ngày giờ qua
lại, nhơn dục ép đè Thiên lý cho đến suy đồi, nghiệt quả ([20]) tàn sát lẫn nhau.
Cơ tấn hóa của đời tấn bộ chừng nào thì nhơn tâm biến thiên chừng nấy.
Đại đạo Tam kỳ từ ngày Ngọc Hoàng
Thượng đế giáng cơ đến nay đã mười hai năm ([21]) mà chưa có chơn
truyền nên nhơn sanh không biết đâu mà tu hành, chỉ lo cúng lạy rồi chán chê
đi. Đến nay hết thời kỳ hoằng khai giáo lý, đã đến thời kỳ khai hóa chơn
truyền, nên quyển Thánh đức kỳ này, một chương giải luận về giáo lý tức là thế
đạo, còn một chương về tinh thần tức là thiên đạo. Vậy chơn truyền của Đại đạo
ngày nay đã ban xuống thế. Quý báu thay! Hữu căn hữu hạnh thay cho nhơn sanh
nhuần gội [ơn phước] ([22]) của Đức Cao Đài!
Từ đây nhơn sanh tu hành đã có
phương pháp mà hành theo chơn đạo. Nếu chúng sanh mà cượng lý thì bị đọa tam đồ
bất năng thoát tục.([23])
Vì từ khi ([24]) vào đạo Cao Đài
tức là tu theo chơn truyền đạo Cao Đài vậy. Còn kẻ biết tuân theo lời dạy mà
làm theo Đạo nhựt thường hành thì được thần linh bảo giám, hộ mạng hằng ngày,
chẳng bao lâu sẽ đặng phát minh mà rõ cơ mầu nhiệm.
[1] Động Đình: Hồ Động Đình
ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc). Động Đình hồ Đại tiên Trưởng là một
tôn hiệu của Đức Lý Thái Bạch.
[2] Đào nguyên: Cảnh tiên.
[3] Luyện thuốc: Âm dương, ngũ hành...
trong cơ thể là các món thuốc (nội dược). Luyện thuốc
trường sinh bất tử (thoát luân hồi) tức là dùng thiền (tịnh luyện, nội tu) để
khai thác huyền năng diệu dụng của các món thuốc sẵn có trong cơ thể mỗi người.
[4] Thị thần: Xem các vị thần. Theo kinh
Huỳnh đình, mỗi bộ phận nhỏ trong cơ thể con người đều có một vị thần ngự trị. Hiểu thoát ý, thị thần là quán sát nội thân,
tức cũng là phép thiền.
[5] Tế độ: Tế và độ đồng
nghĩa đưa người qua sông. Về mặt hữu hình, tế độ là cứu giúp. Về mặt
siêu hình, tế độ là cứu rỗi linh hồn.
[6] Mới gần Ngọc kinh: Mới gần
Bạch Ngọc kinh, được chầu Thượng đế.
[8] Nhập nhồi: Nhập chung lại một lần và
nhồi chung lại thành một khối. Nhơn quả
nhập nhồi: Các tội lỗi gây tạo từ nhiều kiếp trước (nhân) đến
nay tạo thành nghiệp báo (quả) tích lũy và dồn dập tác động cùng một lượt (nhập nhồi) làm con người đau khổ cùng cực.
[9] Hồi tâm nhơn: Người có
lòng quay về nẻo thiện (hồi tâm hướng thiện).
[11] Huyền vi: Nhiệm mầu, tinh vi (nên rất
khó nhận biết, xét đoán). Máy huyền vi:
Máy Tạo. Cơ thể con người cũng là bộ máy huyền vi
vì con người có thể nhờ phép tu thiền để phát huy các khả năng siêu nhiên tiềm
tàng trong xác thể.
[17] Giá là
xe. Giá hạc là xe tiên, do chim hạc
kéo. Chim hạc chở vị tiên trên lưng cũng ví như xe, nên gọi là giá hạc.
[18] Sắc tài tửu khí: Trụy lạc sắc
dục, say mê cờ bạc, be bét rượu chè, hút chích ma túy.
Bốn thứ này cũng gọi tứ đổ tường.
[19] Danh lợi thế quyền: Danh tiếng,
lợi riêng, thế lực, quyền hành.
[20] Nghiệt quả: Quả ác, quả báo xấu.
[21] Đạo khai năm Bính Dần (1926). Thánh
đức chơn kinh được ban vào năm Mậu Dần (1938).
[22] Có
lẽ bản kinh 1965 in sót chữ. Mạn phép ghi tạm là ơn phước.
[23] Đọa tam đồ: Bị luân hồi, sinh
vào ba đường ác (tam ác đạo) để chịu trừng phạt các tội lỗi. Tam đồ là hỏa đồ (hồn ở địa ngục, bị thiêu đốt); đao đồ (hồn làm ngạ quỷ, chịu cảnh đói
khát và đao kiếm hành hạ); huyết đồ
(hồn làm súc sinh, bị người hay thú khác giết hại để làm miếng ăn). Bất năng thoát tục: Không thể thoát
khỏi cõi trần tục.
[24] Bản
kinh 1965 in “Vì trước
khi”.