Dấu Chân Phía Trước
Lễ kỷ niệm Khai Minh Đại Đạo rằm tháng 10 vừa qua hết nửa con trăng, nhưng hôm nay vẫn đang là mùa Khai Minh Đại Đạo, cũng như cách nay bảy mươi bảy năm (tháng 11-1926), khi các môn đồ đầu tiên của Đức Thượng Đế vâng lệnh Thầy công khai mối Đạo Trời ở chùa Gò Kén tức Thiền Lâm Tự (làng Long Thành, tỉnh Tây Ninh), thì đại lễ ra mắt nhân sinh đã kéo dài luôn ba tháng, làm nên một mùa Khai Minh, làm thành sự kiện lịch sử hy hữu.
Đạo khai thì tà khởi. Từ buổi ấy, thế lực cường quyền ngoại bang đã không hề chùn tay đàn áp hàng hàng lớp lớp những người con áo trắng của Đức Cao Đài vì họ muốn mau chóng dập tắt ánh lửa tin yêu vừa bừng sáng trong hàng triệu tấm lòng chứa chan hy vọng của những người dân mất nước đang sống trong đêm dài nô lệ dưới ách thuộc địa thực dân.
Đức Thượng Trung Nhựt và Đức Ngọc Lịch Nguyệt có lần hồi tưởng:
“Chúng Tiên Huynh đã trải qua biết bao lúc thăng trầm bĩ thới, trở ngại khó khăn, vào khám ra tù, lưu vong đất khách, hy sinh để tiếp nhận sứ mạng lập nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ từ năm Bính Dần cho đến ngày cổi bỏ xác phàm, rũ sạch những oan khiên nghiệp chướng.” ([1])
Đức Lê Kim Tỵ cũng viết vào sử Đạo một lời làm chứng:
Một tay, một cánh chống Lang Sa,
Họ quyết bóp tan mối Đạo nhà.
Sống thác thường tình đâu có nệ,
Cho người biết được khí hùng ta.([2])
Những Bà Rá, Tà Lài lẻ loi giữa rừng sâu nước độc, những Côn Đảo, Mã Đảo ([3]) cô lập giữa bốn bề biển cả mênh mông, và còn biết bao cái tên rờn rợn của những chốn địa ngục trần gian khác nữa, tất cả đã là những chiếc lò bát quái nấu nung, thử thách tấm lòng can trường thiết thạch của người đạo Cao Đài buổi trước. Những người con áo trắng vì thế đã hy sinh, cho ánh vàng mười rực rỡ trong ngọn lửa hồng:
Xác phàm tuy mất, khí thiêng còn,
Nỗi Đạo, nỗi đời, nỗi nước non.
Có gặp lửa hồng vàng biết giá,
Tử sanh cũng giữ Đạo vuông tròn.([4])
Đó chính là hùng khí kiêu dũng của tiền nhân, mà tập thể Hội Đồng Tiền Bối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trong một dịp trở về trần gian đã cùng trải lòng qua ngọn linh cơ:
Phận bé nhỏ Đạo nhà nắm giữ,
Vai nặng oằn hai chữ nghĩa nhân,
Có Trời, có nước, có dân,
Dân nguy, nước loạn, xả thân giúp đời.([5])
Đó chính là tinh thần bất khuất của Đức Cao Triều Phát:
Dù thế cuộc sắp bày dâu bể,
Dù nước nhà trong thế loạn ly,
Nghiêng vai sứ mạng Tam Kỳ,
Ngày nay, Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia 2 (quận 1) hãy còn rất nhiều chồng hồ sơ dày cộm làm chứng cho những biện pháp, thủ đoạn mà nhiều đời Toàn Quyền Đông Dương, Thống Đốc Nam Kỳ, Khâm Sứ Trung Kỳ cùng với những thuộc cấp thừa hành các tỉnh, quận... đã trăm phương ngàn kế bày ra để mong xóa sổ đạo Cao Đài.
Tuy nhiên, đời muốn vậy mà dễ nào được vậy. Đức Thất Thánh Thượng Hoài Thanh (Nguyễn Tấn Hoài) khi ôn lại sử Đạo đã giúp thế nhân lưu ý một bài học lịch sử thiên thu:
“Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trải qua bao nhiêu lần thăng trầm bĩ thái, làm cho tất cả những người hành đạo, tâm đạo, học đạo, đều chịu những nỗi gian nguy cơ cực, kẻ chết chóc, người lao tù. Nhưng thời cơ đã đến, Thiên lý tự nhiên, dầu ai toan bẻ nạng chống trời, hay có kẻ mong dời non lấp biển, cũng chẳng làm sao được.” ([7])
Đã đành chẳng lịch sử nào mà chẳng nặng thương đau và nhiều mất mát, nhưng đau lòng thay, những sự kiện sử Đạo bi tráng ấy đã ảnh hưởng quá đỗi tới tiến trình nền Đạo mà hậu quả di hại hiển nhiên không chỉ sớm chiều! Những thuyền trưởng tài trí của nền Đạo buổi sơ khai vừa phải đối phó với bão táp cuồng phong, vừa phải lo vững tay lèo lái con thuyền Đạo hướng về mục tiêu đã định, cỡi lên muôn ngọn sóng dữ dằn trong lúc kình ngư thủy quái vẫn không thôi đeo bám chực chờ. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc hồi tưởng:
“Cơ Đạo lúc bấy giờ luôn luôn ứng phó xoay trở với bao nhiêu áp lực bên ngoài đưa đến. Dầu tài cán đến bực nào cũng không làm sao tiến hành cho kịp lúc.” ([8])
Hoàn cảnh lịch sử ấy đã kềm hãm nền Đạo đang trên đà tiến triển vượt bực từ buổi sơ khai. Lớp người khai sơn phá thạch theo thời gian vừa bị tuổi tác vừa bị nghịch cảnh bào mòn thân xác, tiêu hao sức lực. Đức Quảng Đức Chơn Tiên (Huệ Lương Trần Văn Quế) ngậm ngùi tâm sự:
“Nhân đây Tệ Huynh xin bày tỏ tâm tình đạo sự để chư hiền hữu được thấu rõ. Tệ Huynh vì sứ mạng, vì nguyện lực, cũng vì nghiệp căn buổi sinh thời, nhục thể trải bao phong trần lao lý, nên cuộc hành trình không còn đủ sức và tiêu biểu cho người hướng đạo Thiên ân trên bước đường khó khăn tận độ.” ([9])
Dù muốn hay không muốn, luật vô thường vẫn là luật vô thường. Từng vị tiền bối lần lượt nối bước ra đi, ôm trong tâm khảm một nỗi hận khôn nguôi bởi vì đạo sự còn ngổn ngang, sứ mạng còn dang dở, mà hoài bão cao cả cũng như kế hoạch vận trù mai hậu đều chưa kịp chuyển giao cho lớp người sau tiếp nối. Nỗi hận lòng đó, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã hơn một lần thổ lộ:
“Tiếc vì sự nghiệp Đạo chưa thành, tuổi đời chồng chất, tâm sự và kế hoạch cũng chưa kịp trao hết cho lớp người tiếp nối, nên hậu quả đang để lại cho đàn em gánh lấy.” ([10])
“Có những điều chưa tiện nói cho Hội Thánh được biết, việc ấy mãi đến ngày nay cũng chưa được cùng ai tỏ bày tâm sự, mà đó là điều tai hại vô cùng. Đó là mầm trở ngại cho bước tiến của Đạo ngày nay.” ([11])
Khi Đức Phạm Hộ Pháp dạy rằng “đó là điều tai hại vô cùng. Đó là mầm trở ngại cho bước tiến của Đạo ngày nay” thì chính những lời lẽ nặng trìu trĩu ấy đã khiến cho người sau không khỏi xót xa tấc dạ chia sẻ cùng người xưa, bởi lẽ có đến mức như vậy thì bậc Thiên ân sứ mạng thay Trời hành hóa như Đức Hộ Pháp mới phải đành đoạn thở than “con Tạo trớ trêu” chẳng khác chi thế tục đời thường:
Những việc từ xưa đã sắp bày,
Nhưng chưa tiện nói để ai hay,
Trớ trêu con Tạo chia đôi ngã,
*
Nhắc đến công nghiệp tiền nhân, dù muôn lời vạn tiếng cũng không làm sao diễn bày cho rốt ráo. Quả thực, đúng như Đức Bảo Pháp Chơn quân Huỳnh Chơn cảm thán:
Ôi nhắc đến mà lòng tha thiết,
Bậc tiền khai tâm huyết trải trang,
Biết bao gian khổ trần hoàn,
Điểm tô xây đắp Việt bang Cao Đài.([13])
Thọ hưởng sự nghiệp của người xưa để lại, người đạo Cao Đài ngày nay không thể không nhớ đến sử Đạo, không thể không thông thuộc sử Đạo, vì chính sử Đạo cũng là một phần bất ly của lịch sử dân tộc suốt một thế kỷ nhà tan nước mất. Hơn thế nữa, sử Đạo là sợi dây thiêng liêng cố kết truyền thống và hiện đại, là sinh lực đạo mạch chảy từ người xưa cho đến tận người sau. Đức Cao Triều Phát dạy:
“Dòng đời cứ triền miên như dòng nước chảy. Kẻ trước đi qua, người sau kế tiếp, người sau nữa đang đợi chờ, cứ mãi như thế theo dòng lịch sử của thời gian, còn in lại những gì cao cả cho đời thương tưởng và nhắc nhở.” ([14])
“Tiên Huynh đã đi qua, chiếc bóng đã nằm xuống, nhưng tinh thần của Tiên Huynh mãi mãi theo gót chân của các em mà đi vào ánh sáng Đạo, vào bóng tối của trần gian.” ([15])
Sử Đạo còn là bài học kinh nghiệm vô giá cho lớp người sau đang tiến bước đi lên, noi theo dấu chân người trước. Ý thức như thế, lớp người hôm nay lắng lòng học kỹ từng chữ từng lời trong từng trang thánh giáo thánh ngôn ắt sẽ lãnh hội vì sao đan xen với những dòng giáo lý Cao Đài vẫn là những dòng sử thi Cao Đài được viết từ ngọn linh cơ giữa bao canh trường tịch mịch. Đức Bạch Liên Tiên Trưởng (Phan Thanh) lưu ý:
“Nhìn lại viễn đồ đã qua, trên bước đường hành đạo của chư sứ đồ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, dẫu rằng trên vạn nẻo đường nhân thế, tuy lắm cảnh thăng trầm buồn vui, hiệp tan tan hiệp, may rủi rủi may, tất cả sự kiện ấy đều là những kinh nghiệm sống, những bài học quý giá.” ([16])
Đức Cao Triều Trực cũng dạy:
“Trong tình bạn đạo, gặp lại nhau không thể không ôn lại những gì diễn tiến từ dĩ vãng đến hiện tại, những nỗi buồn vui bại thành trên bước đường hành đạo, để giúp đỡ cho nhau những kinh nghiệm sống. Âu đó cũng là bổn phận của người đi trước. Có chỉ bảo cho nhau để lớp người sau biết những gì cần phải làm, những gì cần phải tránh, để làm vốn liếng thực hiện đại chí của bực hướng đạo, làm sao cho đúng với tôn chỉ khai Đạo mà Đức Chí Tôn đã định, để hoàn thành sứ mạng thế Thiên hành hóa và cũng để khỏi ân hận nuối tiếc như lớp người đã đi qua trong quá khứ.”([17])
Lại nói sang ý thức chép sử. Lớp hậu bối đàn em làm sao tránh khỏi những lúc trở trăn, những hồi ray rứt. Ngọn bút nào có lương tri thì cũng phải bao phen ngập ngừng mà nét mực vì thế nên chẳng được trọn dòng, bởi một lẽ giản dị rằng với tấm lòng tri ân kính ngưỡng lớp tiền nhân, sự thận trọng buộc mình vốn dĩ đã dặt dè lại càng thêm muôn phần dè dặt.
Đức Giáo Tông Vô Vi Lý Thái Bạch dạy rằng “Sử phải thật, không thiên kiến tô hồng, không chủ quan tùy cảm, không định kiến khen chê.” ([18]) Phương châm ấy quả là khuôn vàng thước ngọc nhưng muốn làm được thế đòi hỏi người chép sử phải vượt qua cái ta bản ngã của mình. Thế nên, khi các đấng tiền khai Đại Đạo trở về giúp lớp người sau bổ sung những dòng sử thi Đại Đạo, thì không ai khác hơn là chính các ngài đã nêu gương sáng cho đàn em chép sử, mà Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là một trường hợp. Đức Phạm Hộ Pháp dạy:
“Công quả khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có thể nói là Bần Đạo đã đóng góp được hai phần ba công quả ấy. Nhưng buồn vì nước nhà chủ quyền không được bảo đảm, kể từ thuở khai Đạo các đàn anh cũng vì lẽ ấy bị chi phối rất nhiều. Từ chỗ vị kỷ, vị danh, vị lợi, cũng như tự ái, tự đại, tự tôn, nên đã gây ra cảnh chia ly phân tán, đã để lại một gánh nặng cho đoàn hướng đạo hậu sanh. Đó là điều đáng buồn và cũng là kinh nghiệm quý giá cho đàn em trong mai hậu. (...)
“Vết xe trước đã sụp đổ, đoàn xe sau nên tránh. Kể ra đàn anh chịu một phần trách nhiệm rất lớn trong sứ mạng. (...) Vậy chư hiền đệ muội cũng xem gương ấy mà ghi lòng trong thời kỳ hành đạo.”([19])
Đem hết can tràng, phơi hết ruột gan mà tỏ bày với người sau như thế, là cả một tình thương bao la trong trách nhiệm trĩu nặng của người xưa đối với viễn đồ Đại Đạo Tam Kỳ. Đức Đoàn Văn Bản dạy:
“... tổ tiên của con người dù phải lâm vấp những sai lầm trong quá khứ, nhưng linh thể của họ nơi cõi hư vô hằng mong mỏi cho kẻ hậu bối sanh tiền phải được thanh cao tốt đẹp, phải được tiến bộ hơn họ.” ([20])
Lời dạy của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng không ra ngoài ý ấy:
Mong sao hậu tấn khôn hơn trước,
Để cố xiển dương mối đạo Thầy.([21])
Chung dòng tư tưởng như Đức Phạm Hộ Pháp và Đức Đoàn Văn Bản, với nỗi lòng lo lắng cho bước đi người sau, Đức Ngọc Lịch Nguyệt tâm sự:
Trót nguyện cùng nhau đến cõi trần,
Thế Thiên hoằng đạo độ sanh dân.
Đạo chưa phổ cập dân chưa tỉnh,
Dẫu được ra đi luống ngại ngần.
Ngần ngại cho người sắp bước sau,
Dặm trường càng thấm lại càng đau.
Đau tình cốt nhục, đau non nước,
Ngoảnh lại kìa ai nghĩ thế nào? ([22])
Nói đến bài học lịch sử là nói đến cái hay và cái chưa hay của người đi trước. Nhưng thế nào là hay và thế nào là chưa hay? Năm xưa, nếu không có lời trần tình của Đức Ngô Minh Chiêu tại Minh Đức Tu Viện,([23]) thì làm sao người nay hiểu được nỗi lòng của Ngài? làm sao hậu thế hiểu được vì sao Ngài dù đã từ tạ ngôi vị Giáo Tông mà vẫn cứ chính danh là Đệ Nhất Giáo Tông của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ?
Hay nói đến việc chia chi rẽ phái. Nhìn về phương diện này đã đành một nỗi ngậm ngùi xa xót, nhưng xét ở phương diện khác lại là lẽ tồn sinh để phát triển. Đức Phạm Hộ Pháp dạy:
Đạo một gốc phát sanh nhiều chỗ,
Cốt là đem phổ độ nhơn sanh.
Càng nhiều kẻ dữ về lành,
Chung quy làm sáng cái danh Cao Đài.([24])
Đức Hộ Pháp dạy tiếp:
“Mỗi người, mỗi tổ chức hành đạo, dẫu có khác nhau về danh từ, về hình thức hoặc về nhân sự, đó chỉ là sự phân chia trách nhiệm để hành đạo độ đời, dốc làm sao xiển dương đạo pháp, phổ độ nhơn sanh, cho nên những người con có hiếu cùng Chí Tôn Thượng Phụ, cho nên những hàng hướng đạo gương mẫu làm sáng danh Đạo danh Thầy. Đó là nhiệm vụ chánh, chớ không có nghĩa rằng gây ảnh hưởng tốt đẹp cho phe nhóm mình, tìm mọi cách xóa mờ phe nhóm khác. Đó là trái với tình thương, trái với mục đích khai Tam Kỳ Phổ Độ của Chí Tôn Thượng Phụ.” ([25])
Tính hai mặt như thế của mỗi sự kiện lịch sử có thể tạm biện giải bằng lẽ nhị nguyên đối đãi. Cho nên, một khi còn mang trí phàm trong xác tục, ai dám bảo mình có thể xét chuyện thị phi không sai chân lý?
Hiểu như vậy mà thông cảm và chia xẻ với tiền nhân. Người đời hiểu lầm người đạo đã đành mà giữa người đạo với người đạo đã chắc gì ai dễ hiểu được ai!
Một trường hợp tiêu biểu là tiền bối Cao Triều Phát (1889-1956), Bảo Đạo Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Hậu Giang. Sinh thời, tiền bối là một hiện tượng độc đáo của nghĩa khí Nam Kỳ và có lẽ cũng chính vì thế mà tiền bối đã là một nhân vật phải chịu những mịt mờ ngộ nhận. Sau này, qua ngọn linh cơ Đức Cao Triều đã tỏ rõ nỗi niềm tâm sự:
“Tệ Huynh vì lòng nhơn ái, vì sứ mạng thiêng liêng, hy thân ra đểlãnh hết những điều chết chóc tai hại của nhơn sanh trong một vùng Hậu Giang đang đứng kề bên chiếc đao hai lưỡi. Hoàn cảnh đã xui nên, dầu phải tử vì Đạo, lại càng chói ngời danh tiết. Lòng Tệ Huynh nguyện thế, nào có sai đâu, nên đoạn đường cứu cánh đã trói buộc Tệ Huynh vào một hoàn cảnh đặc biệt, mà hiện giờ sự lầm tưởng vẫn còn mang máng trong đầu óc của chúng sanh, mà những người biết Tệ Huynh thì rất ít!” ([26])
Lại thêm một trường hợp nữa để người sau thận trọng suy gẫm. Vào thập niên 1960, trong một lần hội ngộ với tiền bối Tiếp Pháp Trương Văn Tràng (1893-1965) tại thánh thất Nam Thành, tiền bối Huệ Lương Trần Văn Quế (1902-1980) đã bị ngộ nhận. Than ôi, đó cũng là lần sau chót hai vị tiền bối đáng kính có dịp luận đàm việc đạo!
Tiền bối Trương Tiếp Pháp quy thiên ngày 16-02-1965, đúng rằm tháng Giêng Ất Tỵ. Thoát xác rồi, lìa cảnh giới nhị nguyên rồi, bấy giờ Đức Trương Tiếp Pháp mới nhận ra tấm chân tình của người bạn đạo. Thế nên sau khi thoát xác bốn tháng, Đức Trương Tiếp Pháp đã thông qua tập thể Lưỡng Đài Tiền Bối Đại Đạo, thỉnh cầu Đức Mẹ cho phép chơn linh Trương Tiếp Pháp trở về trần gian, và chỉ với mục đích duy nhất là để chính Ngài có dịp giải tỏa với tiền bối Huệ Lương một ngộ nhận năm nào. Hôm ấy, Đức Mẹ dạy:
“Nhân tiện hôm nay, Mẹ có tiếp khải thỉnh cầu của Lưỡng Đài Tiền Bối. Trương Văn Tràng xin lâm đàn để cùng Huệ Lương đôi lời tâm sự. Mẹ sẽ cho Kim Đồng hộ trợ chơn linh nhập đàn.”
Kế đó, chơn linh của Đức Trương Tiếp Pháp giáng đàn, bộc bạch mấy lời ngắn gọn như sau:
“Huệ Lương lão hữu. Tệ Huynh còn nhớ một lời hứa tại Nam Thành thánh thất. Buổi hội trong chi phái Tam Kỳ Đại Đạo cũng là lần sau cùng vĩnh biệt. Tệ Huynh xin vài lời lão hữu thông cảm. Đến giờ này, Tệ Huynh mới biết lòng chơn thành của lão hữu đối với Đạo.” ([27])
Câu chuyện cảm động trên đây giữa hai vị tiền bối đức độ khả kính rõ ràng là một bài học lịch sử cho lớp người sau. Bài học ấy là: Có những việc của tiền nhân, người sau không hiểu âu cũng là chuyện thường tình giữa cảnh giới nhị nguyên. Mọi phán xét đối với lịch sử bao giờ cũng khó khăn, phức tạp. Đừng ai chủ quan nghĩ rằng mình có thể thông suốt mọi uẩn khúc của người xưa. Chỉ khi nào bỏ xác phàm rồi, chơn linh về thượng cảnh, lớp sắc màu giả tướng che mắt phàm trí tục tan biến, bấy giờ mới hiện rõ lẽ thật.([28])
Bài học lịch sử quý giá ấy còn có một hệ luận quan trọng. Đó là, nếu biết hễ còn mang xác phàm thì còn ngộ nhận, còn lầm hiểu nhau, thì giữa đồng đạo dù hiểu lầm đến mức độ nào, vẫn cố làm theo lời các tiền khai nhắc nhở, rút ra từ kinh nghiệm bản thân khi còn bôn ba tại thế. Đức Nguyễn Ngọc Tương dạy:
Một Thầy, một Đạo, một Cha.
Đức Cao Triều Phát nhắc nhở:
Mình với Đạo chung tình Tạo Hóa,
Phải coi như một ngã một thân,
Đi cho mút quãng đường trần ...([30])
Đức Nguyễn Bửu Tài khuyên:
“Hãy đặt lại đại cuộc đạo nghĩa lên trên mọi cá tánh, mọi thất tình, để làm sáng tỏ danh Thầy danh Đạo.” ([31])
*
Trong lịch sử kim cổ đông tây, đã có những vĩ nhân được ngưỡng mộ và tán tụng rằng tuy sự nghiệp chưa thành nhưng ý chí đã thành. Đối với lớp tiền bối khai Đạo, ý chí dẫu đã thành nhưng bởi vì sự nghiệp chưa thành mà các Đấng vẫn mãi còn vào ra cõi tục, lúc nào cũng sát cánh cùng lớp người sau đang bước theo dấu chân người trước.
Đức Bạch Liên Tiên Trưởng (Phan Thanh) dạy:
“... vì nhiệm vụ còn vương mang với Tam Kỳ Phổ Độ nên tất cả chư vị Hội Đồng Tiền Bối quá vãng đã, đang và sẽ trở lại thế gian để sát cánh cùng chư hướng đạo hầu tiếp tục sứ mạng phổ truyền đạo lý, phổ độ nhơn sanh.” ([32])
Đức Thượng Trung Nhựt và Đức Ngọc Lịch Nguyệt dạy:
“Lời thành thật Tiên Huynh nói đây để các em hiểu cho các anh. Dầu được về nơi cõi thượng, nhưng cũng vẫn hành đạo trong sứ mạng của mình. Tiên Huynh mong rằng lời nói hôm nay các em hãy xem là tất cả tấm lòng ưu ái của các anh đối với các em nơi cõi thượng.” ([33])
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc dạy:
“Đã là thâm tình đồng sứ mạng trong buổi tận độ chúng sanh, dù kẻ đã ra đi cũng như người ở lại, đều vẫn còn trách nhiệm như nhau.” ([34])
Nói như vậy để thấy rằng bước chân của người đi sau không hề đơn độc, mà người đi sau đang bước đi trong sự yểm trợ chặt chẽ của tiền nhân. Đức Cao Triều Phát dạy:
Cùng trong con cái Cao Đài,
Kẻ u người hiển thi tài làm nên.([35])
Đức Thất Thánh Tiên Thiên Thượng Hoài Thanh dạy:
“Tuy việc nhiều người ít, nhưng không phải như thế mà nản lòng, kẻ hữu hình ráng sức ráng công, người Tiên cảnh sớm phò tối trợ.” ([36])
Đức Quảng Đức Chơn Tiên (Huệ Lương) dạy:
Ngày xưa đồng chí đồng tâm,
Nay dầu u hiển tình thâm vẫn còn.
Nguyện lòng hai chữ sắt son,
Xương minh chánh đạo chẳng mòn chẳng sai.
Tệ Huynh nhắn bạn trần ai,
Cùng chung sứ mạng Cao Đài xưa sau.
Sắc không hỗ trợ có nhau,
Khó khăn chẳng bỏ gian lao chẳng rời.([37])
Những tình cảm gắn bó thiêng liêng ấy cho thấy giữa người đi trước của ngày xưa và người nối tiếp theo sau của ngày nay nếu có còn cách biệt thì chẳng qua chỉ là sự cách biệt bất khả kháng của xác thân huyết nhục. Đức Cao Triều Phát dạy:
“Giờ đây Tiên Huynh và các em chỉ cách nhau về hình thể huyết nhục, nhưng chí hướng và sứ mạng đều cũng như nhau.” ([38])
Thậm chí, còn hơn thế nữa, người xưa với người sau tuy chưa một lần diện kiến giữa chốn trần ai phong vũ nhưng điều ấy hoàn toàn không trở thành chướng ngại cách chia tình thâm tha thiết, ân nghĩa nặng sâu. Đức Cao Quỳnh Cư dạy:
“Dầu chư hiền hữu cùng Tiên Huynh chưa một lần biết nhau lúc sanh tiền, nhưng giờ đây rõ lại tình huynh đệ thiêng liêng không xa lạ.” ([39])
Không xa lạ âu cũng dễ hiểu, bởi lẽ người đi trước kẻ theo sau, tất cả đều bước chung một con đường, nung nấu chung một hoài bão, thắp sáng một niềm tin, và cùng đứng chung dưới một bóng cờ Đại Đạo. Đức Phạm Hộ Pháp xác định:
“Bần Đạo là người anh đi trước, các em là những đàn em đi sau, mỗi mỗi đều núp dưới bóng cờ Đại Đạo để phụng sự Thiên cơ, đem lại hạnh phúc, an vui, thanh bình cho nhân loại.” ([40])
*
Thêm một mùa Khai Minh vừa đến với những người con áo trắng trên quê hương Việt Nam, trên mảnh đất mà Thượng Đế đã chọn để lập thành Đại Đạo. Và không còn bao lâu nữa, một niên trình mới cũng sắp mở ra cho Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, cho bộ máy sau cùng mà Thượng Đế đã dựng gầy để phục vụ sứ mạng của Đại Đạo.
Cái thời tiết khắc nghiệt của mùa đông đã qua sẽ làm sắc mai vàng mùa xuân mới càng thêm tươi thắm, thế nên:
Hết Đông Chí đến ngày khai thới,
Dầu phân ly hãy đợi tao phùng,
Dặn lòng một tấm kiên trung,
Muôn sông ngàn lạch cũng chung một nguồn.([41])
Hơn lúc nào hết, chính lúc này đây, những tín hiệu tốt đẹp của cơ đạo Kỳ Ba đang dần dần tỏ lộ, để cho những ai đã, đang và sẽ tiếp tục đeo đuổi đường lối chân chánh của đạo Cao Đài, thực thi sứ mạng đại thừa của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý lại thêm nung nấu đức tin khi nhớ đến lời Thiêng Liêng năm xưa đã dạy:Thượng Đế không bao giờ gieo giống trên tảng đá.
Dẫu lịch sử vốn chẳng mấy khi được xuôi dòng như lòng người mơ ước, nhưng “những bước chân của người đi trước với những bước chân của người đi sau đã và đang khắc sâu trong nền thời gian từng dấu một.” ([42])
Đức Cao Triều Phát dạy:
“Đại Đạo khai minh trên mảnh đất nhỏ bé này, dù trong hoàn cảnh nào, thời gian nào, Đại Đạo cũng đã tự nhận một giá trị, một sứ mạng nào đó rồi. Giá trị ấy, sứ mạng ấy có được, không phải chỉ nằm trong văn kiện, trong giấy trắng mực đen. Đại Đạo có đạt được giá trị và sứ mạng đặt để là nhờ những người nối tiếp cùng nhau xây dựng. Mỗi cá nhân một sứ mạng, mỗi thế hệ một trách nhiệm riêng.” ([43])
Nhìn về viễn đồ thất ức niên (bảy trăm ngàn năm) của Đại Đạo, thì quãng đường non tám mươi năm Cao Đài, hay lịch trình ngót bốn mươi năm Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý phải chăng vẫn chỉ mới là chút vắn vỏi khiêm tốn của một khởi hành dấn bước?
Ngẫm suy như thế để mà trầm tư nhớ rằng người hôm nay đang là người sau của người xưa nhưng rồi chính người hôm nay cũng sẽ là người xưa của người sau trên dặm dài sử Đạo.
Thực vậy, nói người xưa đi trước, nói người nay đi sau, ấy là tạm lấy một giai đoạn thời gian làm mốc. Khi đặt con người lịch sử trong lẽ miên viễn trường lưu của diễn trình lịch sử thì ý nghĩa xưa và nay rõ ra vô cùng tương đối. Thế nên, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc minh định:
“Người xưa đà vắng bóng, chư hiền hữu tiếp bước theo sau, cũng đồng chung sứ mạng. Bần Đạo cùng các bạn đồng liêu là hàng tiền bối của ngày nay, còn chư hướng đạo là bậc tiền bối của ngày mai. Xét ra, kẻ đi người đến, kẻ tiếp tục theo sau, nhiệm vụ như nhau, không hơn không kém.” ([44])
Và nhớ như vậy, để xin cùng nguyện cầu, cùng dặn lòng nhắc nhau, giúp nhau chân cứng đá mềm thận trọng tiếp bước đi tới, sao cho không hổ với người xưa và sao cho chẳng thẹn với người sau.
Chọn rồi mục đích chánh chơn,
Thệ lòng một tấm keo sơn chớ rời.([45])
Người đi trước quên mình vì Đạo,
Mong ai sau hoài bão tương lai,
Xương minh giáo lý Cao Đài,
Mở cơ tận độ trong ngoài vạn bang.([46])
Đó cũng chính là tấm lòng của Đức Quảng Đức Chơn Tiên (Huệ Lương Trần Văn Quế) đã vì ai mà thiết tha trao gởi cho ai trong buổi đầu tiên trở lại cõi trần:
Ai ơi sứ mạng đại thừa,
Trọn đời gồng gánh chưa vừa chưa ưng.
Nhìn nhau bỗng rưng rưng giọt lệ,
Nỗi mừng thương huynh đệ Thiên ân.
Mừng vì đường lối chánh chân,
Thương vì sứ mạng lắm phần gay go.
Thôi thì thôi chuyến đò buổi chót,
Lòng dặn lòng đắng ngọt chớ nao.
Người xưa để lại người sau,
Gieo mầm sống đạo biết bao vuông tròn.([47])
Phú Nhuận, 04-12-2002
Huệ Khải
* Bài nói chuyện tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 9.00 giờ sáng 01-11 Nhâm Ngọ (thứ Tư 04-12-2002).
([1]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 14 rạng 15-02 Đinh Mùi (24-3-1967).
([3]) Mã Đảo (Madagascar ) là một đảo quốc trên Ấn Độ Dương, ở phía đông nam bờ biển châu Phi. Madagascar là đảo chính và lớn hàng thứ tư trên thế giới (587.040km2). Vương quốcMadagascar bị thực dân Pháp xâm lăng (1883), chiếm làm thuộc địa (1896). Trước khi giành lại độc lập (1960),Madagascar là một trong những nơi thực dân Pháp lưu đày các nhà ái quốc Việt Nam .
([23]) “Buổi đầu, Tiên Huynh được Thượng Đế chọn là môn đệ đầu tiên. Đức Từ Phụ tùy theo căn cơ và sự sống, tuổi tác của Tiên Huynh mà cho người dẫn dắt một phương pháp công phu tu luyện, mặc dầu đã có từ ngàn xưa, nhưng nay vẫn tạm đặt là Cao Đài tân pháp để làm đường giải thoát cho Tiên Huynh, một đồ đệ đầu tiên của Thượng Đế trong Tam Kỳ Phổ Độ. Nhưng rất tiếc Tiên Huynh chưa hoàn thành được chỗ nội đơn đại dược, nên Tiên Huynh không dám nhận ngôi Giáo Tông mà Từ Phụ ban cho(…).” Minh Đức Tu Viện, 27-01 Canh Thân (13-3-1980).
([28]) “Có những vấn đề lịch sử phải kiên nhẫn đợi đến khi dòng thời gian trôi qua rồi, đợi đến khi con người lịch sử đã về với cõi vĩnh hằng, đợi đến khi mọi cặn cáu của dư luận, thành kiến và kỳ thị đã lắng đọng vào dĩ vãng, nằm yên dưới đáy nước trong trẻo của chân lý bất biến, lúc bấy giờ con người mới có thể vô tư nhìn lại lịch sử và hiểu được phần nào tâm tư cùng can tràng những người thiên cổ.” Lê Anh Dũng, Lịch Sử Đạo Cao Đài Thời Kỳ Tiềm Ẩn 1920-1926. Huế: Nxb Thuận Hóa, 1996, bìa 4.