Một ngày sống đạo
của người tín đồ Cao
Đài
Cơ duyên
Đầu xuân năm Mậu Dần (1938), sau
khi đạo Cao Đài ra đời được đúng mười hai năm, các đấng trong Tam giáo vâng
chiếu Đức Cao Đài ban truyền Thánh đức chơn
kinh tại Ngũ Phụng Kỳ Sơn.([1]) Khi Thánh đức chơn kinh
hoàn thành được khoảng ba phần tư, một hôm bộ phận thông công tiếp được bài thơ
xưng danh sau đây:
Lý chánh tu tâm dưỡng chí thanh,
Giáo khai Đại đạo chọn nhơn lành.
Tông truyền nhứt bổn kỳ Tam hội,
Giáng dạy tu thân đạo nhựt hành. (tr. 124)
Bốn chữ khoán thủ và câu 4 đọc là:
“Lý Giáo tông giáng dạy tu thân đạo nhựt
hành”. Nói cách khác, Đức Giáo tông ban cho môn sanh biết phương pháp thực
hành tu thân hàng ngày; người tín đồ Cao Đài cứ noi y theo đó thì có thể sống
đạo trọn vẹn một ngày đúng với chánh pháp Tam kỳ Phổ độ.
Theo Phật giáo Nhị kỳ Phổ độ, Đức
Thích Ca không tự ý thuyết pháp ban kinh. Mỗi bộ kinh ra đời đều có một vị
thỉnh pháp.
Truyền thống này lại thấy trong
Tam kỳ Phổ độ. Hôm ấy Đức Lý đang ở cung tiên và chạnh lòng thương xót chúng
sanh chịu nhồi quả do nghiệp báo buổi hạ nguơn mạt kiếp. Đức Lý than:
Nghĩ thảm bấy sanh linh nguơn hạ,
Xót xa thay nhơn quả nhập nhồi.
Pho kinh Thánh đức chưa rồi,
Cầu xin Từ phụ điểm hồi tâm nhơn. (tr. 125)
Đức Lý vừa nghĩ tới đó thì liền có
chiếu của Đức Khương Thái công do tiên đồng mang đến:
... Cạnh tranh nhơn quả thêm nhồi,
Đời tàn xáo lộn đời ôi có tường.
Than thế sự tang thương biến động,
Chưa hết sầu thấy bóng Thái công,
Quỳ tâu mấy vị tiên đồng,
Rằng nay có chiếu Thái công đến mời.
Đến mời Lão xuống chốn Kỳ Sơn,
Dạy phép tu hành đặng cứu nhơn.
Xuống cơ gầy nhịp mấy dây đờn. (tr. 125)
Nói xong về cơ duyên tả kinh, Đức
Lý bảo ngay rằng: “Lão giảng dạy về Đạo nhựt
thường hành.”
Trong bài thơ khoán thủ xưng danh
khi mới giáng đàn, Đức Đại tiên trưởng cho biết “Lý Giáo tông giáng dạy tu thân đạo nhựt hành”. Giờ đây, Ngài xác
định phương pháp tu thân hàng ngày do Ngài ban trao chính là Đạo nhựt thường hành
(Đạo
thực
hành hàng ngày).
Sách Trung dung có câu: Không được rời Đạo dù chỉ một khoảnh khắc nhỏ…([3]) Nhưng phải làm sao
để cho tâm mình lúc nào cũng gắn liền với Đạo?
Thời hạ nguơn mạt kiếp, đạo đức
suy đồi, con người đời sống càng văn minh thì tâm địa càng tráo trở, gian trá
theo chiều ngược lại. Muốn không rời xa Đạo dù chỉ một khoảnh khắc nhỏ, quả
thật khó khăn vô vàn!
Nhưng khó khăn vô vàn không có
nghĩa là phải bó tay. Cách nay hai mươi sáu thế kỷ, giáo chủ đạo Tiên trong Nhị
kỳ Phổ độ là Đức Lão Tử từng bảo: Lời ta dạy thật dễ hiểu, thật dễ làm theo.([4])
Sang Tam kỳ Phổ độ, đứng đầu Tam trấn
Oai nghiêm và đại diện cho Tiên giáo, Đức Lý Thái Bạch khi dạy Đạo nhựt thường hành
đã dùng những vần thơ lục bát, song thất lục bát Việt Nam rất dễ nhớ, dễ hiểu
và dễ thực hành để tế độ chúng sanh.
Tuy nhiên, khi dùng lời giản dị,
dễ hiểu, dễ làm để dạy Đạo nhựt thường hành thì dường như Đức Lý e rằng tâm
phàm vốn thích sự cầu kỳ, mắc mỏ sẽ xem thường, coi nhẹ, bỏ lơ pho kinh. Vì
thế, trước khi ban kinh, Ngài mở lòng từ bi nhắc nhở rằng Đạo nhựt thường hành
chính là chơn truyền của Đại đạo Tam kỳ Phổ độ, rất mầu nhiệm và linh ứng:
“Vậy chơn truyền của Đại đạo ngày nay đã ban xuống thế. Quý báu thay! Hữu
căn hữu hạnh thay cho nhơn sanh nhuần gội [ơn phước] ([5]) của Đức Cao Đài!
“Từ đây nhơn sanh tu hành đã có phương pháp mà hành theo chơn đạo. Nếu
chúng sanh mà cượng lý thì bị đọa tam đồ bất năng thoát tục.
“(…) Còn kẻ biết tuân theo lời dạy mà làm theo Đạo nhựt thường hành thì
được thần linh bảo giám, hộ mạng hằng ngày, chẳng bao lâu sẽ đặng phát minh mà rõ cơ mầu nhiệm.” (tr. 126)
Nghe được lời dặn dò tâm huyết
này của Đức Lý Giáo tông, trộm nghĩ người tín đồ Cao Đài cần nên suy nghĩ thêm
về cơ duyên thỉnh kinh và ban kinh Đạo nhựt thường hành.
Suy nghĩ về cơ duyên
Theo lời dạy của Đức Lý Giáo tông,
Ngài ban kinh Đạo nhựt thường hành vì có chiếu thỉnh của Đức Khương Thái công.
Trong hằng hà sa số phật tiên, thánh
thần phò giúp Đức Chí tôn thời Tam kỳ Phổ độ, tại sao vị thỉnh kinh lại là Đức
Thái công và đấng ban kinh chính là Đức Lý Giáo tông? Tại sao không phải các vị
nào khác?
Trong hệ thống Ngũ chi thờ trên
Thiên bàn đạo Cao Đài, theo hàng dọc ở giữa, thông suốt từ Trời (Thiên nhãn)
xuống tới người (tín đồ) thì Đức Thái công là giáo chủ Thần đạo. Ngài ở vị trí
thấp nhất như để làm trung gian cho con người (Nhân đạo) và vị trí cao hơn là
Thánh đạo. Còn Đức Lý Giáo tông đại diện Tiên đạo, ở vị trí trung gian cho
Thánh đạo và Phật đạo.
Phải chăng Đức Thái công thỉnh
kinh Đạo nhựt thường hành là tạo cơ hội, đem phương tiện giúp người phàm noi theo
để tu tiến lên phẩm Thánh hay chí ít thì cũng vào phẩm Thần?
Đạo nhựt thường hành do Đức Lý
Giáo tông ban trao, phải chăng còn hàm ý kinh này sẽ mở đường tiến hóa cho
người tu vượt lên tới phẩm Tiên, phẩm Phật mà hội hiệp cùng Trời là Đức Chí tôn
tại Bạch Ngọc Kinh?
Có thể như vậy lắm bởi lẽ trước khi
ban kinh Đạo nhựt thường hành Đức Giáo tông bày tỏ thánh ý của Ngài là:
Những mong tế độ nơi trần,
Noi đường chánh giáo mới gần Ngọc Kinh. (tr. 125)
Tới đây không biết có ai trong
lòng băn khoăn, nghi ngờ? Lẽ nào chỉ với hai mươi tám bài lục bát, song thất
lục bát, tổng cộng ba trăm năm mươi câu quốc ngữ rất giản dị mà Đạo nhựt thường
hành lại có khả năng huyền nhiệm đủ đưa con người siêu phàm nhập thánh?
Trao đổi chuyện này ngoài xã hội,
chắc thiên hạ dễ cười ngất. Cười vì không tin. Không tin nên chẳng ai thèm học
và hành theo Đạo nhựt thường hành. Rốt cuộc chiếc thang siêu phàm thánh nhập
thánh tuy Đức Lý Giáo tông đã bắc sẵn nhưng chẳng ai thèm bước lên mà leo dần
cho tới đỉnh thượng.
Nấc thang thứ nhất
Vào thế kỷ thứ VI, Thánh
Augustine bảo: “Đức tin tức là tin cái gì
mình không thấy, và phần thưởng của đức tin là thấy được cái điều mình tin.”
([6])
Vậy, kết quả mầu nhiệm của Đạo nhựt
thường hành sẽ chỉ hiện bày cho những ai có đức tin vì họ sẽ thấy và thụ hưởng được
những gì mà họ vững lòng tin.
Nếu ví hai mươi tám bài kinh Đạo nhựt
thường hành như hai mươi tám nấc thang nối cõi phàm lên cõi trời thì nấc thang
đầu tiên mà Đức Lý Giáo tông ban cho môn sanh chính là đức tin. Ngài dạy môn sanh phải tin, tin để dẹp lòng kiêu ngạo, đủ
hạnh khiêm tốn thực hành đúng lời lẽ đơn sơ, giản dị do Ngài chỉ giáo.
Vì thế, mở đầu Đạo nhựt thường hành
là bài Giới đức tin kinh. Giới là cảnh báo, răn dạy để con người biết
giữ mình cho khỏi lầm lạc. Kết thúc bài kinh, Đức Lý Giáo tông dạy: “Cần đọc thường. Đi đứng, nằm ngồi đọc
được.” (tr. 127)
Nếu một người học thuộc, nhớ
nằm lòng bài kinh này, thì bất kỳ lúc nào trong ngày, bất kỳ
đang ở nơi đâu, đều có thể đọc hay niệm thầm để tự nhắc mình rằng:
Làm người phải học tánh Trời,
Phải tin Tạo hóa, phải dồi đạo tâm.
Luân hồi quả báo cao thâm,
Có vay có trả cân cầm chẳng ly. (tr. 127)
Nhờ mỗi ngày tự biết nhắc mình biết
sợ luật Trời, biết kiêng quả báo chắc chắn con người sẽ biết dằn tà tâm, không
dám làm chuyện trái đạo nữa. Như thế đã thánh hóa lòng mình rồi.
Nấc thang thứ hai
Kinh sách gọi thế giới hai mặt
này là nhị nguyên 二元 (duality).
Do nhị nguyên nên tuy chỉ có một con người mà lúc này tâm hiền đủ hạnh làm
thánh, lúc khác tâm không được hiền thừa sức làm ma.
Khi đưa môn sanh bước lên nấc
thang thứ hai, vừa mở bài Giới tâm kinh
Đức Lý Giáo tông liền dạy rằng tâm phàm mang tính hai mặt:
Chữ tâm sách giải chưa thông,
Nửa ngoài vật dục nửa trong cơ Trời. (tr. 128)
Như vậy người tu phải biết trau
dồi nửa phần hướng nội là phần Trời để không bị nửa phần hướng ngoại là phần
vật dục sai khiến vào chỗ lầm lạc, thậm chí tù tội nơi địa ngục. Đức Giáo tông
dạy:
Để tâm xao lảng lờ lu,
Thì tâm tạo ác diêm phù khó ra.
Giới tâm trước phải giới ta,
Đừng cho danh lợi hại mà bổn tâm.
Dục tình, ái ố, mưu thầm,
Sa mê danh lợi, tham dâm lụy trần. (tr. 128)
Nấc thang thứ ba, thứ tư
Hàng ngày, người tín đồ Cao Đài
cúng bốn thời thường đọc bài xưng tán Nho giáo. Trong ấy có hai câu: Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu;
Thọ quốc mạch tất tiên ư trí chúa chi trung.([7]) Như vậy, mỗi ngày cúng thời người tu bốn lần tự nhắc nhở mình phải
lo tròn hai chữ trung, hiếu.
Đức Đại tiên Ngô Minh Chiêu có
lần dạy rằng “Trên cõi Thiên đình không
có một vị phật tiên, thần thánh nào mà thiếu nhân nghĩa, không trung hiếu, mất
liêm sỉ.” ([8]) Vì thế, trên chiếc
thang dẫn môn sanh về cõi thượng, trong Đạo nhựt thường hành, hai đức cơ bản
của con người là trung, hiếu đã được Đức Giáo tông đặt ở nấc thang thứ ba (Khuyến ái quốc gia kinh) và thứ tư (Khuyến hiếu phụ mẫu kinh). Khuyến là khuyên bảo, khích lệ cho con người
gắng sức hơn lên.
Những nấc thang kế tiếp
Giáo chủ Cao Đài là Cao Đài Tiên ông,
thế nên tu Cao Đài là tu tiên, và Đức Giáo tông Vô vi của Cao Đài chính là Đại tiên
trưởng Lý Thái Bạch. Cao Đài là đạo Tiên nhưng dụng công cứu đời thì chủ trương
Nho tông chuyển thế. Trước khi lấy Nho tông chuyển thế người tu phải lấy Nho tông
chuyển hóa bản thân. Dù chuyển thân hay chuyển thế thì căn bản Nho tông nằm
trong bốn chữ tam cương ngũ thường.
Trong Đạo nhựt thường hành Đức
Giáo tông dạy thực hành ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) qua năm bài:
Giới nhơn kinh (bài 12);
Giới nghĩa kinh (bài 13);
Giới lễ kinh (bài 14);
Khuyến trí kinh (bài 8);
Giới tín kinh (bài 9).
Ngài dạy thực hành tam cương qua
ba bài:
Khuyến ái quốc gia kinh (bài 3);
Khuyến hiếu phụ mẫu kinh (bài 4);
Giới phu thê kinh (bài 15).
Trong đời sống hàng ngày, mối
quan hệ bản thân với gia đình, xã hội và quốc gia không chỉ hạn hẹp ở tam cương.
Để giúp môn sanh hoàn thiện hóa bản thân, Đức Giáo tông bổ sung thêm quan hệ
thầy trò, quyến thuộc, bạn bè qua ba bài:
Khuyến kỉnh sư phụ kinh (bài 5);
Khuyến kỉnh công cô kinh (bài 6);
Khuyến bằng hữu kinh (bài 7).
Trên đây là phương pháp sống đạo về
mặt vĩ mô. Qua Đạo nhựt thường hành, Đức Lý chuẩn bị cho môn sanh chu đáo tất
cả khía cạnh cần thiết để thực hành một ngày sống đạo đúng theo chơn truyền Cao
Đài. Chưa hết, Đức Giáo tông còn dạy cách sống đạo một ngày trong đời thường về
mặt vi mô, bằng cách thực hành phương pháp rèn luyện bản thân (luyện kỷ).
Luyện kỷ gồm tám bài:
Giới thân kinh (bài 10);
Giới ý kinh (bài 11);
Giới sân kinh
(bài 16);
Giới si kinh (bài 17);
Giới ái kinh (bài 18);
Giới ố kinh (bài 19);
Giới kiên nhẫn kinh
(bài 20);
Giới buồn rầu nhân quả kinh (bài 21).
Thử lấy một thí dụ là rèn luyện thân xác. Thân xác con người
thường thích sướng hơn khổ, thích làm biếng, hưởng thụ hơn siêng năng, nhọc
nhằn. Do đó, mở đầu Giới thân kinh,
Đức Giáo tông phê ngay (tr. 132):
Thân phàm biếng nhác lừ đừ,
Nhiều khi dã dượi chẳng từ ngủ ăn.
Vì thân công đức trở ngăn,
Mất điều lễ nghĩa hữu bằng tín trung.
Để trị cái thân làm biếng, Đức
Giáo tông dạy (tr. 132):
Từ đây con nguyện thủy chung,
Lấy tâm làm chủ chẳng tùng theo thân.
Uống ăn, đi đứng có chừng,
Giữ gìn thể tháo dưỡng thân tu hành.
Một thí dụ khác là rèn luyện tình cảm. Người sống đạo phải
biết sống vui, thế nhưng tránh sao
khỏi những lúc buồn phiền, rầu rĩ do hoàn cảnh đưa đến. Giúp môn sanh giải
quyết nỗi niềm này, Đức Giáo tông ban cho bài Giới buồn rầu nhân quả kinh. Ngài dạy rằng trước đây môn
sanh đã trót tạo cái nhân buồn rầu do đó hôm nay phải lãnh cái quả buồn rầu.
Thế thì thay vì ngồi than thở, hãy can đảm chấp nhận sự báo ứng, và lập tức lo
làm việc phước đức để vừa không rảnh rang nhớ tới nỗi buồn, vừa tích chứa nhiều
phước đức ngõ hầu trả dần nợ cũ (tr. 137):
Xét ra muôn sự trần ai,
Đều do tiền kiếp trả vay rõ ràng.
Biết rồi con chẳng buồn than,
Dầu khi tai họa khốn nàn cũng cam.
Dốc lòng làm chủ tánh phàm,
Nợ xưa xin trả, phước đam thi hành.([9])
Sống đạo là chủ động ngăn ngừa quả báo xấu
Biết can đảm chấp nhận đau khổ,
muộn phiền để sống vui mà lo trả nợ cũ – đó mới là một mặt của sống đạo. Người
sống đạo còn biết chủ động ngăn ngừa nhân xấu mới để không lãnh quả xấu mới. Ngăn
ngừa cách nào?
Ngày xưa có người hỏi Đức Khổng
Tử rằng tinh hoa của kinh Thi là gì. Đức Vạn thế Sư biểu tóm gọn trong ba chữ: Tư vô tà (Đừng nghĩ bậy.)([10])
Tư tưởng con người có sức mạnh.
Khi anh A nghĩ quấy, luồng tư tưởng xấu của anh làm ô nhiễm môi trường chung
quanh và tích lại trên không trung (trung giới). Bấy giờ sẽ có ít nhất ba hậu
quả:
(1) Nếu tư tưởng xấu của anh A
gặp một tư tưởng xấu tương tợ thì nó được tiếp sức và trở nên mãnh liệt hơn,
rồi nó phản hồi lại anh A, và xúi giục anh A làm quấy bằng hành vi. Anh A trực
tiếp tạo nghiệp.
(2) Tư tưởng xấu của anh A tiếp
tục lởn vởn trong không trung. Thế rồi anh B lại có đồng tư tưởng xấu như thế,
tư tưởng xấu của anh A tác động anh B làm ra hành vi xấu. Anh A gián tiếp tạo
nghiệp, nhưng cả hai anh A và B đều chịu quả xấu.
(3) Càng đông người có tư tưởng
xấu giống nhau, chúng tụ lại trên không trung rồi phản hồi cho rất đông người
khác làm ác, như thế nghiệp xấu không chỉ giới hạn ở một, hai người mà lan rộng
ra thành cộng nghiệp và hậu quả là một vùng, một địa phương sẽ phải chịu chung khổ
nạn. Do đó, thời nay Trời Phật dạy môn sanh Cao Đài tọa thiền tập thể, rồi dùng
tư tưởng lành của mình xông lên không trung để xóa bớt dần hắc khí do tư tưởng
xấu thế gian tạo ra ngõ hầu giảm bớt thiên tai, loạn lạc trên khắp thế giới.
Trở lại với Đạo nhựt thường hành,
để dẫn dắt môn sanh sống đạo, Đức Giáo tông dạy luôn hai bài ngăn ngừa nghiệp
ý, nghiệp tư tưởng. Bài Giới ý kinh
nói rõ (tr. 132):
Ý là ác nghiệt mọi điều,
Trong đời vạn sự, ý nhiều tội hơn.
... Những điều sâu hiểm ghét thương,
Đều do ý ác tạo đường nghiệt căn.
Bài Giới tư tưởng kinh xác định tư tưởng xấu không tan rã, nó tụ lại
trên không trung (trung giái, trung giới) để chờ cơ hội tác hại (tr. 138):
Trên trung giái đủ hình tư tưởng,
Dưới phàm gian hay vướng kế tà.
Cũng vì tư tưởng xấu xa,
Gây nên tội lỗi khó qua lưới Trời.
Nắm rõ nguyên tắc vận hành của tư
tưởng rồi, người sống đạo Cao Đài hãy chuyển hóa tư tưởng bằng cách tập nghĩ
lành, nghĩ tốt. Đức Giáo tông dạy (tr. 138):
Trọng tinh thần bổ dưỡng linh quang.
Cơ Trời máy Tạo mở đàng giao thông.
Tư tưởng rửa sạch trong bợn tục,
Mới dưỡng tâm diệt dục tầm tiên.
Nếu con còn tưởng lợi quyền,
Thì con khó đặng quy nguyên cùng Thầy.
Sống đạo trong từng sinh hoạt nhỏ nhặt đời thường
Đạo nhựt thường hành còn chỉ cặn
kẽ cho môn sanh tỉ mỉ từng sinh hoạt nhỏ trong đời thường. Chẳng hạn, hết một
ngày ai cũng cần đi ngủ. Nhưng giấc
ngủ người tu phải khác hơn giấc ngủ người chưa biết tu. Trong bài Kinh cầu khi đi ngủ, Đức Giáo tông dạy
môn sanh khi đặt lưng xuống giường phải kiểm điểm việc làm trong ngày của bản
thân và phải biết cầu nguyện đưa hồn lên học đạo trong cõi trung giới (tr.
138-139):
Đêm ngồi suy nghĩ việc mình,
Những điều lầm lỗi giữ gìn ngày mai.
Nghĩa nhân, hiền đức dồi mài,
Hiếu trung nghĩa vụ dám sai tấc thành.
May làm đặng những điều lành,
Vui lòng Từ phụ, phước dành ngày sau.
Rủi thay làm ác hiểm sâu,
Ăn năn tội lỗi khẩn cầu sửa tâm.
Xác phàm yên nghỉ canh thâm,
Hồn lên trung giái học tầm huyền vi.
Cầu xin Thượng phụ từ bi,
Dạy cho hồn trẻ thông tri đạo mầu.
Đến sáng thức dậy, môn sanh hãy khởi đầu một ngày bằng tư tưởng tốt lành,
hứa nguyện với Ơn Trên sẽ sống một ngày có ích cho đời. Kinh thức giấc dạy (tr. 139):
Một đêm xác tục nghỉ yên,
Rồi đây đến sáng tinh chuyên việc đời.
Dầu cho hoàn cảnh đổi dời,
Con nguyền giữ lấy luật Trời chẳng sai.
Làm lành, giúp khó, trợ tai,
Trái oan nguyện trả cho rồi,
Làm lành tích phước vun bồi đức ân.
Kế đến là chuyện ăn cơm hàng ngày. Người sống đạo chẳng
những biết ăn chay lại còn biết cầu nguyện tạ ơn Trời Phật, thánh thần giúp
mình có được bữa cơm tinh khiết nuôi dưỡng thân xác lành mạnh để làm phương
tiện tu hành. Kinh cầu khi ăn cơm dạy
(tr. 141):
Công Thổ địa dưỡng sanh thảo mộc,
Ơn Thần nông ngũ cốc chưởng trồng.
Nuôi người thân mạnh, khỏe lòng,
Khi ăn xưng tụng đức công Cao Đài.
Cuộc sống đòi hỏi ai cũng phải di chuyển. Mỗi lúc bước chân ra khỏi
nhà, người sống đạo lại tâm niệm rằng mình đang đi đến những nơi không trái với
đạo lý. Khi ấy với cõi lòng thanh thản, môn sanh thầm cầu nguyện Ơn Trên bảo hộ
mạng sống để còn có thân xác an lành dùng vào việc tu tập. Kinh cầu khi xuất hành dạy (tr. 141):
Trong vòng luân chuyển trần gian,
Lại qua lui tới dinh hoàn chuyển luân.
Nay con . . . . . . . . . . . . ([14]) dời chân,
Cầu xin Thượng phụ, thánh thần cảm thương.
Những điều tai nạn khỏi vương,
Thần linh phò hộ bước đường bình an.
Trong lúc di chuyển, tránh sao
khỏi ngộ sát làm thiệt mạng vài chúng sanh nhỏ nhít, thế nên hãy biết sám hối
mỗi khi xuất hành (tr. 141):
Đi về đều đặng vững vàng,
Côn trùng thảo mộc vô can phạm nhằm,
Bạch Thầy con thiệt vô tâm,
Cầu xin Thượng phụ ân thâm độ cùng.
Tĩnh tâm
Sinh hoạt hằng ngày là một chuỗi
xáo động. Người sống đạo cần biết thu xếp cho mình những giờ khắc tĩnh tâm để
giao cảm, liên thông với Trời Phật. Môn sanh Cao Đài do đó cần thọ pháp để tập
làm quen với phương pháp ngồi thiền.([15]) Và muốn tọa thiền
cho hiệu quả thì phải răn lòng đừng gây nên tội lỗi. Kinh cầu khi tham thiền dạy (tr. 140):
Tham thiền hồn hiệp hư không,
Hầu khi xuất vía non bồng lần lên.
Tìm ra lý chánh luật Thiên,
Không làm tội lỗi tham thiền phát minh.
Ngồi yên cửu khiếu trong mình,
Mở mang thấu đáo thông linh cơ mầu.
Chứng nghiệm
Đạo nhựt thường hành ví như bản
chương trình hoạch định tỉ mỉ cho từng tư tưởng, hành vi, miếng ăn, giấc ngủ,
quan hệ giao tế, v.v… của người tín đồ trong cuộc sống đời thường. Những môn
sanh Cao Đài biết kiên nhẫn thực hành đúng theo lời dạy của Đức Lý Giáo tông
chính là người thực hành sống đạo. Khi ấy, giữa cuộc đời thường, mỗi người sẽ
chứng nghiệm được lời Đức Giáo tông dạy cặn kẽ rằng:
“Còn kẻ biết tuân theo lời dạy mà làm theo Đạo nhựt thường hành thì được
thần linh bảo giám, hộ mạng hằng ngày, chẳng bao lâu sẽ đặng phát minh mà rõ cơ
mầu nhiệm.”
Cơ quan Phổ thông Giáo lý
29-3-2006
HUỆ KHẢI
[1] Thánh đức chơn kinh. Quyển thứ
Ba. Sài Gòn: ấn quán Công Lý, 1965, 188 trang. (Theo hiền huynh Đạt Truyền Hà
Văn Phủ,
hiện nay Ngũ Phụng Kỳ Sơn thuộc xã Ninh Sơn, huyện Hòa Thành, tỉnh
Tây
Ninh, nằm trong đất của ông Lê Văn Sở là tín đồ Cao Đài Tây Ninh.
Đây là cái động nhỏ (rộng khoảng hai mét, sâu khoảng ba mét) nằm trên đỉnh núi
Heo, phía sau núi Bà, trông qua núi Phụng. Trước khi lên tới động, phía dưới có
khối đá lớn, trên viết sáu chữ bằng sơn: Kỳ
Sơn động, Ngũ Phụng cung.)
[2] Giá là
xe. Giá hạc là xe tiên, do chim hạc
kéo. Chim hạc chở vị tiên trên lưng cũng ví như xe, nên cũng gọi là giá hạc.
[5] Có
lẽ bản kinh in sót chữ. Mạn phép tạm bổ sung là ơn phước.
[7] 開 人 心 必 本 於 篤 親 之 孝 ; 受 國 脈 必 先 於 致 主 之 忠 . Đốc thân chi hiếu: hết lòng hiếu thảo với cha mẹ; trí
chúa chi trung: hết lòng trung thành với đất nước.
[10] Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi viết tư vô tà. 詩三百, 一言以蔽之曰思無邪. (Có một lời bao quát hết được ba trăm bài kinh Thi, đó
là đừng nghĩ bậy.)
[11] Lý tưởng: Suy nghĩ theo sự lý
mà thành cái tư tưởng hư không... (Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển. Sài Gòn: 1957, tr. 501.)
[12] Tưởng nhàn: Không nghĩ tới
những việc bận rộn, bon chen thế tục nữa, và hướng lòng về sự tĩnh lặng để tìm
sự thanh thản tâm hồn.
[13] Phận tôi: Phận tôi tớ. Ngụ ý
công việc giúp đời dẫu lao khổ hay hèn mọn cũng không sờn, không quản ngại.
[14] Tùy
trường hợp cụ thể mà tìm hai chữ điền vào câu kinh này cho đủ. Thí
dụ, nhà ở Phú Nhuận thì khi xuất hành sẽ niệm: “Nay con Phú Nhuận dời chân”, v.v…
[15] Khi vừa mở Đạo, Đức Chí tôn đã khuyên môn đệ sớm
tu thiền. Tại Cần Giuộc, ngày 08-6 Bính Dần (17-7-1926), Thầy dạy: “Kẻ nào trai giới đặng
mười ngày đổ lên, thọ bửu pháp đặng.” Thánh
ngôn hiệp tuyển, quyển 1.