Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

4/10. Vọng Một Ánh Sao / LÒNG CON TIN ĐẤNG CAO ĐÀI



Vọng Một Ánh Sao


Trong một kiếp ở đời Đường (Trung Quốc), Đức Lý là thi hào Lý Bạch   (701-762), sinh ra ở miền đất xa xôi heo hút phía tây là làng Thanh Liên, huyện Xương Minh (sau đổi thành Chương Minh), tỉnh Tứ Xuyên.
Ngài tự Thái Bạch   , hiệu Trường Canh   , biệt hiệu Thanh Liên   (cánh sen xanh, cũng là tên làng). Khi kết hợp với họ Lý, Ngài có các tôn hiệu như Lý Thái Bạch, Lý Trường Canh, Lý Thanh Liên, Thanh Liên Cư Sĩ, Thanh Liên Học Sĩ. Hai tôn hiệu khác của Ngài là Thái Bạch Kim Tinh và Động Đình Hồ Đại Tiên Trưởng (hồ Động Đình    là một danh thắng ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc).
Theo huyền sử, trước khi sinh Ngài, bà mẹ nằm mộng thấy sao Kim (Venus) rơi vào bụng. Sao Kim tức là Kim Tinh   , cũng gọi sao Thái Bạch.
Do sao Kim quay quanh mặt trời ngược chiều và nhanh hơn trái đất, nên người trần gian có thể nhìn thấy sao này ở phía tây vào đầu hôm (sau khi mặt trời lặn một lúc), nên gọi là sao Hôm, sao Trường Canh   , sao Sâm  ; và có thể nhìn thấy ở phía đông trước khi mặt trời mọc nên gọi là sao Mai, sao Khải Minh  , sao Thương  .([1])
Khi Đức Thượng Đế lập đạo Cao Đài, thì Đức Lý là Nhứt Trấn Oai Nghiêm, thay mặt đạo Tiên.([2]) Do cơ Đạo biến chuyển, Đức Chí Tôn lại trao Đức Lý thêm một trọng trách, đó là Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Trong một đàn cơ tại Chợ Lớn ngày 29-10-1926, Đức Chí Tôn dạy môn đệ:
“Vậy từ đây quyền thưởng phạt đã giao vào tay Lý Thái Bạch. Các con liệu mình mà cầu rỗi nơi Người.” ([3])
Hai chữ liệu mình của Thầy có thể hiểu là lời nhắc nhở các môn đệ hãy thận trọng giữ gìn trước quyền uy của Đức Lý Giáo Tông.
Ngay sau phần dạy đạo của Đức Chí Tôn, trong cùng ngày hôm ấy các tiền bối Cao Đài tái cầu và Đức Lý giáng đàn dạy như sau:
“Từ đây Thầy đã giao quyền thưởng phạt về nơi tay Bần Đạo. Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng, vun đắp nền Đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng...”([4])
Trước khi rời ngọn linh cơ, Đức Lý đã lưu lại những lời nghiêm huấn này:
“Từ đây Bần Đạo phải để ý dìu dắt bước đường cho các đạo hữu. Phải gắng công thêm nữa cho hiệp với cơ Trời. Ai hữu phước thì địa vị đặng cao thêm. Ai vô phần thì thì bị đọa Tam Pháp. Phước phần cũng khó lựa người. Rủi rủi may may, đừng trách nơi Bần Đạo.” ([5])
Cách sau đàn ấy khoảng một tháng, ngày 26-11-1926, Đức Chí Tôn thêm một lần nhắc nhở môn đệ:
“... nhứt là Thái Bạch Kim Tinh rất khó. (...) Các con chớ dể ngươi phạm thượng. Nghe à.” ([6])
Đọc sử Đạo, người tín đồ Cao Đài thường có dịp nghiệm suy lời dạy của Thầy. Đây là một trường hợp tiêu biểu:
Sau khi một môn đệ trong hàng tiền khai tạ thế,([7]) Đức Chí Tôn giáng đàn ngày 11-12-1926 và dạy hai vị Đầu Sư Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt như sau:
“Trung, Lịch! Hai con phải dụng đại lễ mà an táng Tương nghe. Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào đem Tương vào Tam Thập Lục Thiên, phải để nó đợi nơi Đông Đại Bộ Châu ([8]) mà chờ Tòa Tam Giáo phát lạc. Thầy có để lời cho Thái Bạch Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng bộ công Thiên thơ ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì! Người nhứt định không dự đến.” ([9])
Sự kiện này cho thấy, dù rất thương xót các con, nhưng Thầy vẫn không vượt qua quyền pháp mà Đức Lý Giáo Tông thực thi.
Có lần Đức Lý nhắc các bậc hướng đạo đã lãnh trách nhiệm trong Tam Kỳ Phổ Độ phải biết gắn bó với trách vụ của mình để lo chu toàn, bởi lẽ Đức Giáo Tông không hề tư vị:
Những trách vụ ban rồi từ trước,
Dầu chư hiền nói được hay không,
Riêng Bần Đạo, vì luật công,
Tùy theo Thiên ý, không lòng chúng sanh.
Quả đào tiên không tranh thì mất,
Phép huyền vi không cất thì rơi,
Vạn linh sanh chúng của Trời,
Nỗi thành hay bại do nơi mình làm.([10])
Nắm quyền pháp, Đức Lý Giáo Tông nhắc nhở các môn đệ Cao Đài phải giữ gìn kỷ cương trong khi hành đạo:
“Bần Đạo thường nói, trước Đức Chí Tôn tất cả là anh em, bình đẳng, nhưng trên phương diện hành sự cần phải có quy tắc, có hệ thống, có khuôn viên mẫu mực. Bần Đạo hôm nay là Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chớ không là Lý Thái Bạch thi tửu đời Đường. Lúc nào thi tửu thì khác, khi hành sự phải trở về với cương vị của người hành sự.” ([11])
Hai năm sau, Đức Giáo Tông dạy thêm:
“Bần Đạo rất cảm động trước tâm đạo chí thành của chư đệ. Bần Đạo vẫn thiết tha với chư đệ trên cương vị Giáo Tông, nhưng đó là Bần Đạo cùng chư hiền. Còn về quyền pháp là chuyện khác. Chư hiền chí tâm tu học, Bần Đạo sẽ hộ trì dìu dắt.” ([12])
Quyền pháp của Đức Giáo Tông rất lớn. Ngài dạy:
“Về quyền pháp thì Bần Đạo có thể bóp nát trái núi Thái Sơn thành tro mạt, lựa là những hình phạt hữu vi...” ([13])
Tuy nhiên, trong kỳ đại ân xá này, trước khi ra uy Đức Giáo Tông vẫn dùng đức từ bi để cảm hóa, và nhắc nhở con người đừng ỷ lại vào lòng thương của Ngài mà làm sai quyền pháp. Đức Giáo Tông dạy:
“... Bần Đạo còn phải dùng lòng từ bi đối với toàn cả chúng sinh trong kỳ mạt hạ. Chư hiền hãy làm như Bần Đạo, nhưng nhớ rằng hễ sai quyền pháp là đắc tội à.” ([14])

*

Xưa kia, ngày 18-10-1936, Đức Chí Tôn than rằng:
Lập một nước dễ hơn truyền giáo,
Truyền dạy người đắc đạo khó thay!
Biết bao kềm sửa đêm ngày,
Làm nên Tiên Phật rất dày công phu! ([15])
Nhớ lời than này của Thầy, mọi người càng thấm thía câu hỏi của Đức Giáo Tông:
Chư hiền đệ muội có biết tại sao Thượng Đế vẫn theo đuổi những hàng hướng đạo nhân sinh từng giờ từng khắc? Cũng như thế, Bần Đạo vẫn còn đa mang, gắn bó với Thiên chức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.” ([16])
Do “đa mang”, do “gắn bó” với Thiên chức Giáo Tông mà Đức Lý không thể để mặc cho người đời cứ trầm luân trong men say tục lụy:
Đời say Ta cũng muốn nên say,
Ngặt nỗi còn mang sứ mạng này... ([17])
Trước đó hai năm (1967), Đức Giáo Tông dạy tương tự:
Đời say Ta cũng muốn nên say,
Cho tạm phôi pha hết tháng ngày.
Bởi tánh từ bi không nỡ bỏ,
Vì lòng bác ái mới ra tay.
Chèo thuyền tế chúng qua bờ giác,
Mở Đạo độ dân đến Phật đài.
Cho vẹn nghĩa tình cùng vạn thế,
Cho xong sứ mạng với nhơn loài.([18])
Trong sứ mạng của Ngài, Đức Giáo Tông luôn luôn hết sức ưu ái đối với những ai biết nhận lãnh trách vụ thế Thiên hành hóa, cộng sự với Ngài để đem sức phàm hữu hạn hiệp cùng huyền diệu vô vi chuyển xoay bánh xe tiến hóa của Thiên cơ.
Riêng đối với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, được thành lập vào năm 1965, và là bộ máy sau cùng của Đại Đạo, Đức Lý Giáo Tông luôn luôn dành cho một tấm lòng thương yêu vô cùng đặc biệt.
Ta mến Ta thương mới chỉ truyền,
Giáo Tông tạm gác cái uy quyền.
Chỉ còn sư đệ lời hơn thiệt,
Tâm đó lòng đây bởi vạn duyên.([19])
Năm 1969, có lần Ngài dạy:
“Việc đầu tiên của người sứ mạng lưỡng đài trong Cơ Quan, tuy không là hàng giáo phẩm Thiên phong của tòa thánh, hội thánh đã có trong Đạo luật hiện giờ, nhưng so lại Thiên chức này, Bần Đạo cũng phải nể nang về phần hy sinh hành đạo của chư hiền đệ, hiền muội mà chớ.” ([20])
Trên đường hành đạo, nhân viên Cơ Quan luôn luôn được Đức Giáo Tông chia sớt những nỗi ưu tư. Đức Giáo Tông dạy:
“Bần Đạo đến để chia sớt những nỗi ưu tư của người Thiên ân sứ mạng đã vì tiền đồ Đại Đạo mà gắn bó từ mười mấy năm qua và cũng khích lệ chư hiền đệ muội đã trọn tâm hành đạo. Trên có Thầy dưới có bạn cùng nhau chia sớt những nỗi buồn vui mà Bần Đạo cũng là một trong những người bạn đồng cộng sự vô vi của Đức Chí Tôn với các hàng Tiền Khai Đại Đạo, tất cả đều cùng một chí hướng phụng sự. Đức Chí Tôn đã ban trao sứ mạng trọng đại thì chư hiền đệ muội cùng Bần Đạo phải thực hiện được hoàn thành. Có như vậy chư hiền còn lo gì phải bị trở ngại không đạt đến chỗ viên thông?” ([21])
Nhận những người phàm trần là bạn cộng sự, Đức Giáo Tông lúc nào cũng lo lắng cho từng bước đường hành đạo:
Chư đệ muội ôi! Những người con tin của Thượng Đế, những sứ giả Thiên ân, Thượng Đế và chư Phật đều lo lắng cho cả, trong đó có Bần Đạo.” ([22])
Không chỉ là lo lắng, Ngài và các Đấng thiêng liêng còn âm phò mặc trợ cho người hành đạo vượt qua những lúc thế sự đa đoan, tình đời bất trắc. Đức Giáo Tông dạy:
“Hiện tại các chức vụ đương vi, dầu lớn dầu nhỏ, cũng đều là những sứ mạng được Đức Chí Tôn và Công Đồng Tam Giáo đặt để, do đó thần minh hết sức hộ trì không hề sơ sót.”([23])
Lời dạy này không phải là lần đầu tiên. Khi Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý hãy còn non trẻ, năm 1966 Đức Giáo Tông đã để lời thương yêu tha thiết:
“Bần Đạo xem chư hiền đệ muội là những người em thân yêu mến luyến, nên đã từng cho chư Thần hộ trợ, vượt qua những lúc khó khăn, ngang nhiên hành đạo, có lý nào lại không được lưu chút tình thân, nhớ lời dặn dò chỉ bảo, để được nhẹ nhàng tâm não, mát mẻ cõi lòng, mà bắt tay cùng Bần Đạo để lo xây dựng cơ tái tạo ở đời thượng nguơn.” ([24])
Chín năm sau đó, Đức Giáo Tông nhắc lại:
“Hôm nay Bần Đạo muốn cho chư hiền đệ, hiền muội biết để vững lòng: Đức Chí Tôn Thượng Đế hội Công Đồng Tam Giáo để quyết định trong cuộc đào thải hoặc bảo tồn để đưa nhân loại trở về đời sống an lành trong thượng nguơn thánh đức, những người có sứ mạng cứu thế trong giai đoạn này luôn luôn được sự âm phò mặc trợ của các Đấng thiêng liêng và chư thần minh quảng bố.” ([25])
Mọi tâm tư, tình cảm của người hành đạo trong Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý lúc nào cũng được Đức Giáo Tông chiếu soi thấu đáo. Đức Giáo Tông khuyến nhủ:
“... chư hiền gắng kiên nhẫn phục vụ. Dù trong âm thầm, nhưng không phải chỉ một mình mình biết đâu.” ([26])
Thực sự là vậy. Năm 1967, Cơ Quan vừa được hai tuổi, có một vị trong hàng lãnh đạo Cơ Quan rất nhiệt thành phụng sự, chịu đựng nhiều nỗi khổ tâm. Và Đức Giáo Tông đã đến, đến để an ủi bằng những lời vô cùng chứa chan:
“... hiền đệ đã rút ruột con tằm để kéo bao nhiêu cuồn chỉ tơ dệt thành tấm vóc, Bần Đạo biết rõ hết. Nước mắt hiền đệ chảy lộn vào trong, chẳng khác nào những mối tâm tư Bần Đạo đã chảy tràn nơi Động Đình Hồ.([27]) Hiền đệ! Đành rằng hiền đệ không nao núng với mọi thử thách bên ngoài và khó nhọc bên trong, hiền đệ đừng tưởng không ai biết điều đó. Có nhiều người biết, trong số đó có Bần Đạo.” ([28])
Mọi đạo sự lớn nhỏ của Cơ Quan, Đức Giáo Tông đều chỉ dạy cặn kẽ. Mỗi khi người hướng đạo làm được chút công trạng, Ngài liền để lời khen ngợi, khích lệ. Nhưng vì tiền đồ, vì sự tiến bộ chung cho đại cuộc, Ngài khen mà vẫn phải dặn dò, nhắc nhở những điều còn thiếu sót.
Năm đầu tiên của Cơ Quan, Đức Giáo Tông dạy:
“Giờ nay, Bần Đạo đến đây để khen tặng chư hiền đệ muội đã nhiệt tâm vì Đạo. Dầu có sơ suất, chẳng qua là tánh phàm phu còn ẩn trong mảnh hình hài ô trược. Thỉnh thoảng Bần Đạo sẽ đến nhắc nhở, dặn dò chư hiền mọi việc để sớm đến mức thành công; ngoại trừ khi nào chư hiền đệ muội tự dấn mình vào đường bất chánh, thì Bần Đạo vì quyền pháp, buộc lòng phải ngơ mắt thi hành theo luật lệ.” ([29])
Tuy nhiên, chính trong lúc dặn dò, nhắc nhở ấy, vì e lòng phàm có chỗ không an thỏa, thế nên Đức Giáo Tông lại an ủi, vỗ về:
Chư đệ muội! (...) Bần Đạo rất hân hoan cảm kích trước tấm lòng thành của chư đệ muội đối với Chí Tôn, với trách nhiệm. Ngợi khen khích lệ đã hẳn rồi, còn cần phải nhắc nhở dặn dò thêm mới là thâm tình chu đáo, phải thế không chư đệ muội?” ([30])
Mỗi một dòng thánh giáo của Đức Lý bao giờ cũng là một dòng chứa chan tình cảm. Biết bao lần ngọn linh cơ nhiệm mầu trong đêm thanh tĩnh mịch đã chuyển tải tấm lòng bao la của Ngài đến với từng con tim của những người trần tục:
Năm tháng ngày giờ thấm thoát qua,
Đêm khuya yên lặng khắp muôn nhà.
Thánh đường chăm chỉ nghe lời đạo,
Chỉ có chư hiền với có Ta.([31])
Ta mến Ta thương mới chỉ truyền,
Giáo Tông tạm gác cái uy quyền.
Chỉ còn sư đệ lời hơn thiệt,
Tâm đó lòng đây bởi vạn duyên.([32])
Nhiều năm trước đó Đức Giáo Tông cho biết vạn duyên ấy đã kết thành từ trong tiền kiếp:
“Nếu nói đúng ra sự hiện diện giữa Bần Đạo với chư đệ muội giờ này, nếu không phải là căn Tiên cốt Phật, nếu không phải là nguyên căn tá trần thế Thiên hành hóa, chắc chắn rằng không có cảnh tao ngộ trút hết bầu tâm tư, cạn tiếng dặn dò, và im lìm lắng nghe cùng suy nghĩ.” ([33])
Chính vì thế, dẫu người phàm tánh tục dễ dàng sơ tâm lầm lỗi muôn bề, Ngài vẫn không chấp. Đức Giáo Tông dạy:
“Sứ mạng của Bần Đạo với sứ mạng của chư hiền đệ, hiền muội như nhau. Ai chấp ai mà chi. Nếu Bần Đạo chấp những sơ suất nơi thế gian, thì trong giờ này Bần Đạo không đến đây, mà đã ở chốn non bồng nước nhược, cờ thánh rượu tiên, ngao du hải hồ bồng đảo, mây gió là thơ, sơn thủy là đàn, quần tiên là bạn. Còn nếu chư hiền đệ, hiền muội mà chấp thì giờ này cũng không có ở đây, mang đạo phục mấy lớp trong bầu không khí oi bức, mà đã ở chốn hý viện có đủ máy điều hòa không khí hoặc ở bãi biển nghinh phong, hoặc ở chốn non cao tuyết lạnh, hoặc ở chốn tửu đình hải vị sơn hào.” ([34])
Đức Lý Giáo Tông luôn luôn xác định những người hướng đạo phàm tục và Ngài cùng chung sứ mạng, cùng đồng hành, do đó cũng cùng chung trách nhiệm:
 “Chư hiền đệ, hiền muội! Trên cương vị Tam Trấn Oai Nghiêm, Bần Đạo có trách nhiệm trước Đấng Chí Tôn cùng Tòa Tam Giáo để dìu dắt nhơn sanh trên đường đạo pháp. Còn ở về cương vị Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là một sự đồng hành như chư hiền đệ muội có trách nhiệm trong cơ quan Đạo. Thế nên sự thành bại, hưng vong, tiến thối, hư nên do hàng tín hữu gây ra thì Bần Đạo cũng như chư hiền có trách vụ đều thọ lãnh công hoặc tội của hàng tín hữu trước Đấng Chí Tôn và Tòa Tam Giáo.
“Từ lâu, chư hiền đệ muội cũng như các hàng Thiên phong chức sắc đều có lòng thành kính nể Bần Đạo hoặc Đức Quan Âm Bồ Tát, hoặc Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân như những Đấng có quyền uy tối thượng dưới Đấng Chí Tôn. Lòng thành kính nể đó khiến chư hiền xem có sự cách biệt quyền uy và nhiệm vụ giữa chư hiền đối với Tòa Tam Trấn Oai Nghiêm. Lòng mến yêu kính nể ấy rất tốt, nhưng chư hiền không nên xem có sự cách biệt ấy, bởi lẽ mà Bần Đạo vừa phân giải ở đoạn trên.” ([35])
Đức Giáo Tông tha thiết khuyến nhủ:
“Bần Đạo là người anh mật thiết cộng sự với chư đệ muội trong Tam Kỳ Phổ Độ. Chư đệ muội có lỗi Bần Đạo không tránh được sự quở trách của Đức Chí Tôn, nên Bần Đạo khuyên chư đệ muội nhớ khi nào lửa lòng bốc cháy, tự ái dâng cao, hãy nhớ đến Thái Bạch Kim Tinh đang cận kề tất cả chư đệ muội để sáng soi hòa dịu.” ([36])
Trong lời khuyến nhủ ấy, Đức Giáo Tông đã nhắc: “... hãy nhớ đến Thái Bạch Kim Tinh đang cận kề tất cả chư đệ muội...”. Thực ra, nếu lòng người đầy xáo trộn, thiếu sự thanh tịnh thuần khiết, thì không thể nào cảm nhận được sự gần gũi với Ngài trong sứ mạng song hành. Đức Giáo Tông dạy:
“Bần Đạo đã đến với chư đệ muội sau lệnh phán của Đức Chí Tôn và Hội Công Đồng Tam Giáo. Từng bước chân, từng việc làm, cho đến mỗi tâm tư suy diễn đều được thần minh ứng trực. Thế chư đệ muội chưa cảm nhận được sao? Có lẽ vì động tâm nên không cảm nhận Thái Bạch Kim Tinh bằng Thần, mà chỉ trông Thái Bạch ở tận Linh Tiêu. (...) Một sứ mạng song hành nhưng chưa gặp gỡ và chưa hiểu biết nhau.”.([37])
Điều Đức Giáo Tông mong muốn là người hướng đạo phải luyện cho tâm lặng lẽ, thanh tịnh. Được như thế thì con người chẳng những có thể cảm nhận Ngài từng khắc từng giây mà còn có thể an nhiên vượt qua mọi biến thiên của thế sự đa đoan, tình đời bất trắc. Đức Giáo Tông dạy:
Chư hiền đệ muội! Mỗi lần Bần Đạo đến trần gian cùng với chư đệ muội đều nhắc nhở gắng tu, gắng học, luyện kỷ, công phu, làm thế nào cho tâm lặng lẽ mà sáng suốt, đức ẩn áo mà trưởng thành. Chỉ có cái bất biến ấy mới ứng với thiên biến của trần gian.” ([38])
Người hướng đạo vì lý do nào đó, nếu không được hay chưa được diễm phúc lắng nghe lời dạy của Đức Lý qua ngọn linh cơ thì vẫn có Ngài chiếu soi, chứng giám. Đức Giáo Tông dạy:
“... tuy Bần Đạo không đến với chư hiền bằng cơ nhưng vẫn tiếp nhận công quả, công trình bằng lý, bằng tâm. Giữa Bần Đạo và chư hiền cùng những người giác ngộ có sứ mạng đem Đạo xây dựng cuộc đời đều liên quan chặt chẽ từng giây phút thiêng liêng, không có gì chư đệ muội đáng ngại cả...”.([39])
Mối liên quan giữa nguời hướng đạo với Đức Giáo Tông là liên quan trách nhiệm. Ngài dạy:
“...chư hiền đệ, hiền muội và Bần Đạo vẫn liên quan trên trách nhiệm tạo thế nhân hòa cho trần gian này an cư lạc nghiệp.” ([40])
Đó là lý do Đức Lý Giáo Tông xóa bỏ sự cách biệt giữa Ngài với những người hướng đạo trong cõi phàm trần.
*
Ra đời năm 1965 Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý được Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng minh định là bộ máy sau cùng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Là bộ máy sau cùng cho nên Cơ Quan cũng gánh vác một sứ mạng, một trọng trách rất đặc biệt trước Đức Chí Tôn và nhân sinh. Đức Giáo Tông dạy:
“Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý được lập thành do Thiên cơ định đoạt trong cuộc luân chuyển tuần hoàn để làm cơ cứu cánh cho nhân loại trong buổi đời mạt kiếp. Dầu chư hiền đệ, hiền muội thấy chỉ là một tổ chức khiêm tốn nhỏ nhen, đối với sứ mạng cao cả trong Tam Kỳ Phổ Độ kể ra như muôn một, nhưng Bần Đạo đã nói, mỗi người đều có sứ mạng riêng của mỗi người.” ([41])
Đức Giáo Tông vì lòng ưu ái đối với những người nhận lãnh trách nhiệm trong bộ máy sau cùng của Đại Đạo, đã không tiếc lời nhủ khuyên dạy dỗ. Thậm chí, Ngài cũng đã từng trách những người hướng đạo trên đường sứ mạng. Trách đó để rồi lại thương mến an ủi rằng đấy là lời “trách yêu” mà thôi. Đức Lý Giáo Tông dạy:
“Nếu có sự thúc đẩy cùng trách yêu của Thiêng Liêng, chư hiền đệ, hiền muội cố gắng tìm hiểu Thiên ý để khỏi uổng công trình của mình đã trải qua nhiều kiếp tu học.” ([42])
Những người do vạn duyên đã kết với Đức Giáo Tông nên ngày nay trở thành nhân viên Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, dù chỉ giữ một nhiệm vụ nhỏ nhất chăng nữa, thì tất cả đều vẫn luôn được Ngài thương tưởng, hộ trì.
Lại còn nên lưu ý rằng không phải tự dưng mà ai cũng trở thành nhân viên Cơ Quan. Chính Đức Giáo Tông hé lộ cho biết Ngài đã vì sứ mạng Cơ Quan mà tác động nhân duyên:
“Bần Đạo đã vì chư hiền, cầu thỉnh Tam Giáo Tòa chuyển thâu những phận sự tài năng đến để giúp việc cùng chư hiền...” ([43])
Một lần khác, Đức Giáo Tông dạy:
“Chư hiền đệ là những thủy thủ của Bần Đạo, đang lái chiếc thuyền từ vượt trùng dương để thực thi những công trình vĩ đại trên tiền đồ Đại Đạo Tam Kỳ. Dầu chuyên nghiệp hay chưa chuyên nghiệp, nhưng với sự tuyển chọn của Thiêng Liêng, không phải riêng chư hiền đệ mới là kẻ có duyên phúc trong sứ mạng cao cả này, mà chính duyên phúc ấy tự Thiêng Liêng đem đến để ban cho chư hiền đệ, hiền muội...” ([44])
Đức Lý Giáo Tông bao giờ cũng cần nhân sự phụ giúp cho Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Tuy nhiên, nếu ai đã đến với Cơ Quan rồi, mà vì lý do này hay lý do khác muốn xin nghỉ thì Ngài cũng rộng lòng chấp thuận. Đức Giáo Tông dạy:
“... thế nên những vị nào đã xin nghỉ thì mặc nhiên được lịnh BầnĐạo chấp thuận...” ([45])
Có điều, sự chấp thuận ấy chính là một thiệt thòi rất lớn mà người rời bỏ bộ máy sau cùng của Đại Đạo đã tự chọn cho mình vì xưa kia Đức Lý từng nhắc nhở:
Quả đào tiên không tranh thì mất,
Phép huyền vi không cất thì rơi.
Vạn linh sanh chúng của Trời,
Nỗi thành hay bại do nơi mình làm.([46])
Đối với các đạo tâm có lòng hoan hỷ, tin tưởng Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, nuôi một thiện cảm với Cơ Quan, tuy những vị này chưa có điều kiện để trở thành nhân viên Cơ Quan, thì Đức Giáo Tông cũng ban ân chứng chiếu cho các vị ấy:
“... trước lòng thành kính của hiền đệ, hiền muội, tuy chưa tình nguyện vào giúp việc Cơ Quan, nhưng đã có nhiều thiện cảm và lòng tin tưởng ở sự hành đạo công tâm và quang minh chánh đại của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, nên đã dành nhiều thì giờ theo dõi, tìm tòi, học hỏi, và nếu có thích hợp với khả năng và hoàn cảnh mình sẽ hưởng ứng xung phong vào lãnh phần công quả giúp Cơ Quan, Bần Đạo chấp nhận với lòng chân thành đó.” ([47])
Ôn lại lời dạy của Đức Giáo Tông, không thể nào kể cho hết tấm lòng của Ngài đối với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý:
Thương chư đệ dốc vì đại cuộc,
Với nhơn sanh trên bước hoạn đồ,
Dốc đem đạo lý diễn phô,
Cho người trần tục điểm tô đạo vàng.
. . .
Thương đệ muội gia công ngày tháng,
Tháng rồi năm dày dạn khó khăn,
Không vì chướng ngại cản ngăn,
Dốc công tâm chí lần phăng tới cùng.
. . .
Bần Đạo đã thương tình vì đó,
Cho nhơn viên lớn nhỏ nữ nam,
Chi nên lỡ lúc xao tâm,
Lỡ khi sơ suất cũng làm ngơ cho.
Dùng lời lẽ dặn dò an ủi,
Lấy đạo tâm gần gũi khuyên lơn,
Để cho đệ muội không hờn,
Vui lên nhịp bước thẳng chơn đến cùng.([48])
Là một vị Đại Tiên Trưởng với quyền pháp có thể bóp nát trái núi Thái Sơn thành tro mạt,([49]) thế nhưng Đức Lý Giáo Tông lại hết lòng hạ cố, và hạ cố đến mức đã bảo con người trần gian rằng Ngài mong được lưu chút tình thân, mong có lòng thông cảm với Ngài trên bước đường sứ mạng song hành:
“Bần Đạo xem chư hiền đệ muội là những người em thân yêu mến luyến, nên đã từng cho chư Thần hộ trợ, vượt qua những lúc khó khăn, ngang nhiên hành đạo, có lý nào lại không được lưu chút tình thân, nhớ lời dặn dò chỉ bảo, để được nhẹ nhàng tâm não, mát mẻ cõi lòng, mà bắt tay cùng Bần Đạo để lo xây dựng cơ tái tạo ở đời thượng nguơn.” ([50])
Chư hiền đệ ôi! Đại Đạo là của nhân loại, của Chí Tôn, mà những sứ mạng là sứ mạng chung cho nhân loại, cho Chí Tôn. Tất nhiên Bần Đạo không phải riêng của Cơ Quan, và chư đệ muội cũng không phải riêng cho Bần Đạo. Thế nên, Bần Đạo và chư đệ muội phải thông cảm để trên dìu dưới thuận, nương theo quyền năng vô tận mà tự độ và độ tha.” ([51])
Ôi! Muôn lời vạn tiếng cũng không làm sao có thể nói hết tấm lòng của Đức Giáo Tông đối với Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Hôm nay, kỷ niệm ngày Vía của Ngài, ôn lại những tâm tình thiết tha, chan chứa yêu thương của Đức Đại Tiên Trưởng, trong nỗi niềm xúc cảm dạt dào, giờ đây với lòng vọng hướng về Đức Thái Bạch Kim Tinh, vọng hướng về một ánh sao sáng soi đường nhân loại trong Tam Kỳ Phổ Độ, xin nguyện cầu cho tất cả chúng ta quyết tâm tinh tiến, làm tròn trách vụ thiêng liêng, để không phụ lòng hoài mong của Đức Giáo Tông từ thuở:
Ai đời, ai đạo, ai tri kỷ,
Nhắn gởi cho ai một tấc tình.([52])
Nam mô Nhứt Trấn Oai Nghiêm Lý Đại Tiên Trưởng Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Thái Bạch Kim Tinh.
Phú Nhuận, 24-9-2002
Huệ Khải



Bài nói chuyện tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 9.00 giờ sáng 18-8 Nhâm Ngọ (thứ Ba 24-9-2002), lễ Vía Đức Giáo Tông.

([1]) Sao Kim to gần xấp xỉ trái đất, là thiên thể sáng nhất trên bầu trời đêm. Sao Kim quay quanh mặt trời từ đông sang tây còn trái đất quay quanh mặt trời từ tây sang đông. Quỹ đạo sao Kim nhỏ hơn trái đất nên sao Kim quay giáp một vòng chỉ mất 243 ngày (vận tốc 35 km/giây) trong khi trái đất quay mất hết 365 ngày 6 giờ (vận tốc 29,8 km/giây).
([2]) Đức Quan Âm là Nhị Trấn Oai Nghiêm, thay mặt đạo Phật. Đức Quan Thánh là Tam Trấn Oai Nghiêm, thay mặt đạo Nho.
([3]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển 1, bản in 1964, tr. 52.
([4]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển 1, bản in 1964, tr. 53.
([5]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển 1, bản in 1964, tr. 54.
([6]) Hương Hiếu, Đạo Sử, quyển 2, bản ronéo, tr. 41.
([7]) Tức là tiền bối Nguyễn Văn Tương (1879-1926), nguyên là Đại Lão Sư Nguyễn Đạo Tương trong đạo Minh Sư. Tiền bối quy hiệp Cao Đài, được Đức Chí Tôn ân phong là Thượng Chưởng Pháp, Thuyết Pháp Đạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Đạo Sĩ.
([8]) Là một trong tứ đại bộ châu.
([9]) Hương Hiếu, Đạo Sử, quyển 2, bản ronéo, tr. 85.
([10]) Huờn Cung Đàn, 30 rạng 01-8 Nhâm Dần (29 rạng 30-8-1962).
([11]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-4 Mậu Thân (11-5-1968).
([12]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-7 Canh Tuất (16-8-1970).
([13]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-7 Canh Tuất (16-8-1970).
([14]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-7 Canh Tuất (16-8-1970).
([15]) Đại Thừa Chơn Giáo, bài 15: Kiên Nhẫn, đàn 04-9 Bính Tý.
([16]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 24-3 Kỷ Dậu (10-5-1969).
([17]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 24-3 Kỷ Dậu (10-5-1969).
([18]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-01 Đinh Mùi (23-02-1967).
([19]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 22-4 Nhâm Tý (03-6-1972).
([20]) Thiên Lý Đàn, 07-01 Kỷ Dậu (23-02-1969).
([21]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-01 Tân Dậu (19-02-1981).
([22]Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-7 Đinh Tỵ (29-8-1977).
([23]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-7 Ất Sửu (30-8-1985).
([24]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-4 Bính Ngọ (03-6-1966).
([25]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-3 Ất Mão (26-4-1975).
([26]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-3 Tân Hợi (10-4-1971).
([27]) Đức Lý còn có tôn hiệu là Động Đình Hồ Đại Tiên Trưởng.
([28]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-02 Đinh Mùi (25-3-1967).
([29]) Thiên Lý Đàn, 20-5 Ất Tỵ (19-6-1965).
([30]Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-01 Quý Sửu (17-02-1973).
([31]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 22-4 Nhâm Tý (03-5-1972).
([32]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 22-4 Nhâm Tý (03-6-1972).
([33]) Thiên Lý Đàn, 23-3 Đinh Mùi (02-5-1967).
([34]) Thiên Lý Đàn, 23-3 Đinh Mùi (02-5-1967).
([35]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 04-3 Quý Sửu (06-4-1973).
([36]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-7 Đinh Tỵ (29-8-1977).
([37]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-7 Ất Sửu (30-8-1985).
([38]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-7 Đinh Tỵ (29-8-1977).
([39]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-4 Bính Thìn (13-5-1976).
([40]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-01 Ất Mão (25-02-1975).
([41]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 18-01 Tân Hợi (13-02-1971).
([42]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 01-3 Đinh Mùi (10-4-1967).
([43]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 10-6 Ất Tỵ (08-7-1965).
([44]) Thiên Lý Đàn, 26-7 Đinh Mùi (31-8-1967).
([45]) Thiên Lý Đàn, 21 rạng 22-3 Giáp Thìn (02 rạng 03-5-1964).
([46]) Huờn Cung Đàn, 30 rạng 01-8 Nhâm Dần (29-8-1962).
([47]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 01-11 Bính Ngọ (12-12-1966).
([48]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 14-02 Mậu Thân (12-3-1968).
([49]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-7 Canh Tuất (16-8-1970).
([50]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-4 Bính Ngọ (03-6-1966).
([51]) Thiên Lý Đàn, 26-7 Đinh Mùi (31-8-1967).
([52]) Thiên Lý Đàn, 26-7 Đinh Mùi (31-8-1967).