Năm 1920 (Canh Thân) Đức Cao Đài khởi sự hóa độ các
tông đồ, lập nên hàng môn đệ tiền phong, khai sơn phá thạch, mở ra một tôn giáo
mới tại Việt Nam .
Thời kỳ hóa độ các tông đồ diễn tiến trong khoảng sáu năm (1920-1926), gồm hai
giai đoạn:
- Năm 1920 (Canh Thân), Đức Cao Đài trước tiên chọn
tiền bối Ngô Văn Chiêu, người sẽ xây dựng nền tảng vô vi hay nội giáo tâm
truyền (esotericism).
- Năm 1925 (Ất Sửu), Đức Cao Đài hóa độ nhóm
Cao-Phạm, về sau gọi là nhóm phổ độ, những vị sẽ xây dựng nền tảng phổ độ hay
ngoại giáo công truyền (exotericism).
Môn đồ đầu tiên của Đức Cao Đài là tiền bối Ngô Văn Chiêu, thường được
biết qua đạo hiệu Ngô Minh Chiêu.
1. Thời thơ ấu
Tiền bối Ngô Văn Chiêu là con duy nhất của một gia
đình lao động thanh bạch. Thân phụ là ông Ngô Văn Xuân. Thân mẫu là bà Lâm Thị
Quý (1858-1919), cũng gọi Lâm Thị Tiền, người quận Bình Tây, tỉnh Chợ Lớn. Song
thân tiền bối cùng làm công cho một nhà máy xay lúa ở Bình Tây.
Tiền bối sinh tại quê mẹ, ngày 27-01
Mậu Dần (thứ Năm 28-02-1878).
Tiền bối chào đời trong một mái nhà nhỏ, chung quanh
đầy sình lầy, nằm phía sau chùa Quan đế, tục gọi chùa Ông, cất năm 1873 (Quý
Dậu), ở số 1, đường Chùa, sau đổi là số 242 đường Lê Quang Liêm, hiện nay là
đình Bình An, số 242 đường Trần Văn Kiểu, phường 3, quận 6.
Khi được sáu tuổi, vì song thân ra Hà Nội mưu sinh,
tiền bối được đưa về làng Điều Hòa, tổng Thuận Trị, tỉnh Mỹ Tho, sống với bà
Ngô Thị Đây, em độc nhất của thân phụ tiền bối. Chú Phu (chồng bà Đây) là Hoa
kiều, bán thuốc bắc và cây ván. Hai ông bà không con, sẵn lòng nuôi cháu, cho
đi học năm cháu lên mười.
Năm mười hai tuổi, nhờ sự giúp đỡ của đốc phủ sứ Lê
Công Xũng (1853-1920), công chức Tòa Bố tỉnh Mỹ Tho (Inspection de Mỹ Tho),
tiền bối làm đơn xin học nội trú collège de Mỹ Tho.([1])
Về sau, tiền bối lên Sài Gòn, học tiếp ở collège
Chasseloup-Laubat. Trường này thành lập ngày 14-11-1874, lần lượt đổi tên là
lycée Chasseloup-Laubat (1928), lycée Jean Jacques Rousseau
(1958), và sau cùng là trường trung học Lê Quý Đôn (1966 cho tới
nay).([2])
Năm hai mươi mốt tuổi, tiền bối đậu bằng thành chung
(diplôme d’études primaires supérieures), và bắt đầu quãng đời công chức từ năm
1899.
Nghiên cứu tiểu sử tiền bối Ngô Văn Chiêu, Giáo sư
Ralph Bernard Smith (trường Nghiên cứu phương Đông và châu Phi, Viện đại học London ) nhận xét: “Ảnh
hưởng văn hóa và tín ngưỡng Việt Nam tất yếu đã tác động đến đời
sống của ông nhiều hơn là vốn Tây học.” ([3])
2. Đời công chức
(1899-1931)
Có thể tóm tắt đời công chức của tiền bối Ngô Văn
Chiêu qua niên biểu sau:
23-3-1899: Làm thư ký tập
sự (élève secrétaire) tại Sở Tân đáo (Service de l’Immigration) ở Sài Gòn, mức
lương 200 đồng.([4])
14-7-1901: Thăng lên ngạch
phó thư ký hạng ba (secrétaire auxiliaire de 3e classe) tại Sở Tân đáo, mức
lương 250 đồng. (Phó thư ký có ba hạng.)
01-01-1903: Sang làm việc ở
Phủ Thống đốc Nam Kỳ, thời Thống đốc François Pierre Rodier. Khi tiền bối Ngô
Văn Chiêu rời khỏi Phủ Thống đốc (tháng 4-1909) thì Quyền Thống đốc Nam Kỳ là
Ernest Antoine Outrey.([5])
14-7-1904: Thăng lên ngạch
phó thư ký hạng nhì (secrétaire auxiliaire de 2e classe) tại Phủ Thống đốc Nam
Kỳ, mức lương 300 đồng.
14-7-1908: Thăng lên ngạch
phó thư ký hạng nhất (secrétaire auxiliaire de 1er classe) tại Phủ Thống đốc
Nam Kỳ, mức lương 480 đồng.
01-5-1909: Làm thư ký Tòa
Bố tỉnh Tân An (Inspection de Tân An). Có rước mẹ theo để phụng dưỡng.
14-7-1910: Thăng lên ngạch
chánh thư ký hạng ba (secrétaire titulaire de 3e classe) tại Tòa Bố tỉnh Tân An,
mức lương 540 đồng. (Cũng như phó thư ký, ngạch chánh thư ký có ba hạng.)
01-01-1913: Thăng lên ngạch
chánh thư ký hạng nhì (secrétaire titulaire de 2e classe) tại Tòa Bố tỉnh Tân
An, mức lương 600 đồng.
01-01-1916: Thăng lên ngạch
chánh thư ký hạng nhất (secrétaire titulaire de 1er classe) tại Tòa Bố tỉnh Tân
An, mức lương 660 đồng. Còn ba năm nữa sẽ thăng lên ngạch thư ký ngoại hạng hay
thượng hạng (secrétaire surnuméraire), nhưng tiền bối đã thi chuyển sang ngạch
tri huyện.
01-01-1917: Thi đậu ngạch
tri huyện hạng nhì (huyện de 2e classe), vẫn làm việc tại Tòa Bố tỉnh Tân An.
(Tri huyện có hai hạng.) ([6])
15-11-1919: Thân mẫu từ
trần.
01-3-1920: Chuyển đi làm
việc ở tỉnh Hà Tiên sau khi mãn tuần bá nhật (một trăm ngày) của thân mẫu.
14-7-1920: Thăng lên ngạch
tri huyện hạng nhất (huyện de 1er classe), mức lương khoảng 1.222 đồng.
26-10-1920: Đi làm chủ quận
Phú Quốc.
01-01-1924: Thăng lên ngạch
tri phủ hạng nhì (phủ de 2e classe), mức lương 1.672 đồng. (Cũng như tri huyện,
ngạch tri phủ có hai hạng. Tri phủ thấp hơn ngạch đốc phủ sứ.)
29-7-1924: Rời quận Phú
Quốc về Sài Gòn. Trở lại làm việc ở Phủ Thống đốc, thời Thống đốc Auguste
Tholance, và công tác ở phòng nhì (2e bureau).
Phủ Thống đốc có bốn phòng (tài liệu năm 1888). Riêng
phòng nhì phụ trách việc thương mại, có nhiệm vụ: “Chuyên về công việc cầu đường, nhà cửa, cùng các sở coi việc. Chịu
giấy làm giá cả. Giấy hiệp đồng, lãnh biện vật hạng cùng công việc làm. Suy
tính, làm giấy lãnh tiền về đồ dùng cùng công việc làm. Các kho dự trữ, cấp
phát vật hạng. Đồ dùng xưa cùng đồ công nhu cho các phòng. Việc đường sá. Phân
đường lộ, lấy mực cất nhà, mực đường. Xét dọn bộ sổ vật hạng, cùng bộ sổ công
việc làm.” ([7])
Như vậy, tiền bối Ngô Văn Chiêu chỉ là công chức hành
chánh (dân sự). Có sách ngộ nhận rằng phòng nhì ở Phủ Thống đốc là cơ quan mật
vụ, gồm các “lính kín”, là một nơi chuyên bắt bớ, điều tra, tra tấn... của thực
dân Pháp, tức là service de la sûreté mà thời xưa người Việt gọi là sở liêm
phỏng hay sở liêm phóng.([8]) (Thực ra, phòng nhì
là cơ quan bên quân đội, chuyên báo cáo cho bộ chỉ huy biết tình hình và khả
năng hoạt động của quân địch, chịu trách nhiệm về các hoạt động tình báo và
chiến tranh tâm lý, thu nhặt tin tức tình báo, nghiên cứu các hoạt động của
nghĩa binh và quân du kích, v.v.).
01-7-1926: Thăng lên ngạch
tri phủ hạng nhất (phủ de 1er classe), mức lương 1.933 đồng. Cao hơn ngạch tri
phủ là đốc phủ sứ, thường gọi tắt là đốc phủ.([9])
Tháng 12-1931: Về tỉnh Cần Thơ
dưỡng bịnh, nghỉ việc hẳn và rời khỏi Phủ Thống đốc. Bấy giờ Eugène Henri Eutrope
đang làm quyền thống đốc Nam Kỳ lần thứ hai trong lúc Thống đốc Jean Félix
Krautheimer vắng mặt.([10])
Các sách thường không ghi rõ ngày tiền bối Ngô Văn
Chiêu nghỉ việc. Nhưng có thể xác định là không thể sớm hơn tháng 12-1931, bởi
lẽ theo hồi ký của Vương Hồng Sển, để thi lên ngạch tri huyện, ông Sển đã thi
kỳ concours professionnel ngày 01-12-1931, mà chủ khảo là Estèbe, tham biện chủ
tỉnh Tân An, và giám thị kỳ thi viết là tiền bối Ngô Văn Chiêu.([11])
Dưới thời thuộc địa, tuy được người dân trong xã hội
kính trọng gọi là “quan”, nhưng tiền bối Ngô Văn Chiêu chẳng lấy thế làm vinh.
Xuất thân từ chỗ hàn vi, tiền bối sẵn có lòng lân tuất đối với kẻ nghèo khổ
chung quanh, không lấy địa vị xã hội làm phương tiện vơ vét đồng bào.
Để giữ đức thanh liêm, dưỡng lòng chánh trực, tiền
bối luôn khép mình vào nguyên tắc Nhứt
hào vô phạm (không phải là tiền của
mình thì dù chỉ là một hào cũng không chiếm đoạt). Cái mà đời gọi là “quan
huyện, quan phủ”, tiền bối coi như một nghề nghiệp, để mưu sinh qua ngày. Trong
câu chuyện với bạn, có lần tiền bối nói: “la
bolée de riz administrative” – chén cơm hành chánh.([12]) Mấy chữ tiếng Pháp
vắn tắt ấy đã phản ánh phần nào thái độ của tiền bối đối với nghề nghiệp, không
bận lòng với mồi phú quý, bả vinh hoa, mặc dù tiền bối có sẵn hoàn cảnh để thụ
hưởng.
Tiền bối chọn một nếp sống kín đáo, dè dặt, không để
dính líu vào các vụ chính trị cũng như không để chính quyền thuộc địa lợi dụng
mà đi ngược lại với lợi ích đồng bào. Làm thư ký ở Sài Gòn, đồng lương không đủ
phụng dưỡng cha mẹ, nuôi thân và cả gia đình, ban đêm tiền bối phải dạy kèm
tiếng Pháp cho người Hoa; người bạn đời của tiền bối lãnh nấu cơm tháng cho một
số thư ký đồng sở với chồng.
Những năm làm chủ quận, tiền bối chăm việc hành
chánh, thường hay nâng đỡ người dân bần hàn cơ khổ, đặc biệt là mấy người nghèo
vì nghịch cảnh nên vướng vòng tù tội. Tiền bối càng được lòng dân địa phương
thì chính quyền thuộc địa càng không hài lòng, càng để tâm ngờ vực. Đó cũng là
lý do khiến cho trong phúc trình “Le
Caodaïsme” (Tây Ninh, 01-01-1932), thanh tra Lalaurette chẳng ngần ngại chỉ
trích tiền bối Ngô Văn Chiêu không biết tận tụy với chính quyền thuộc địa ở Nam
Kỳ. Việc liên tiếp thuyên chuyển tiền bối đi những nơi xa xôi như Hà Tiên và
Phú Quốc, có lẽ cũng là biện pháp hành chánh để trị một công chức mà Pháp không
hài lòng, vì không ép buộc được người ấy trở thành tay sai của thực dân.
3. Gia cảnh
Đang làm thư ký ở Sài Gòn (khoảng năm 1903), tiền bối
Ngô Văn Chiêu được đốc phủ sứ Lê Công Xũng yêu mến, muốn chọn làm khách đông
sàng, cho dù gia thế hai nhà chênh lệch quá nhiều. Theo lời khuyên của cô là bà
Ngô Thị Đây, tiền bối khéo léo từ tạ. Về sau tiền bối kết hôn với một thiếu nữ
mồ côi, tên là Bùi Thị Thân (1879-1955), người làng Thạnh Trị (Mỹ Tho), đảm
đang, đức hạnh, buôn bán nhỏ tại chợ Mỹ Tho. Những năm tiền bối bị thuyên
chuyển đi các nơi, bà thường xuyên sống xa chồng, thay chồng nuôi dạy con cái
chu đáo.
Bà sinh chín lần. Hai người con gái đầu là Ngô Thị
Ngữ (chào đời tại Mỹ Tho, được năm ngày thì mất), và Ngô Thị Hồng (sinh và mất
tại Sài Gòn năm ba tuổi). Bảy người con kế tiếp đều sanh tại Tân An, lần lượt
là hai gái: Ngô Thị Yến Ngọc, tức Lợi (sinh năm 1904), Ngô Thị Nguyệt (sinh
ngày 27-5-1906); và năm trai: Ngô Văn Nhựt (sinh ngày 10-9-1908), Ngô Văn Tinh
(sinh ngày 20-11-1910), Ngô Tường Vân (sinh ngày 01-9-1913), Ngô Thanh Phong
(sinh ngày 15-11-1915), Ngô Khai Minh (sinh ngày 09-9-1920).
Tiền bối không giàu, đông con, nhưng được yên tâm tu
hành, không bị cảnh thê thằng tử phược khảo đảo, dĩ nhiên nhờ có công lao giúp
đỡ của bà, tuy thầm lặng, nhưng không phải nhỏ. Bà tạ thế ngày 30-12-1955 tại
Tân An.
Năm 1909 (Kỷ Dậu), đổi về tỉnh Tân An, tiền bối mướn
nhà ở bờ sông, gần chùa Quan thánh. Bấy giờ chỉ có thân mẫu về ở chung, thân
phụ sống tại Sài Gòn với thứ thất.([13]) Sau này tiền bối
mua một căn nhà lá ở Tân An, giá sáu mươi đồng, trên đất thuê, số 31 đường
Lagrange, xã Bình Lập (nay ở số 27 đường Phan Đình Phùng, thị xã Tân An, tỉnh Long
An). Lần hồi, tiền bối cho cất lại, lợp ngói.
Năm 1920 (Canh Thân) tiền bối đổi đi tỉnh Hà Tiên,
rồi ra đảo Phú Quốc, vợ con vẫn ở lại tỉnh Tân An. Năm 1924 (Giáp Tý) trở về
Sài Gòn, tiền bối trọ tại khách sạn Bá Huê Lầu 百花樓, đường Pellerin (nay là Pasteur) rồi
thay đổi chỗ trọ nhiều lần.
Suốt mười hai năm cuối đời, tiền bối sống ly gia cát ái,
vì đây là giai đoạn Đức Cao Đài dạy tiền bối tu thiền. Tuy thế, tiền bối vẫn lo
tròn bổn phận với gia đình: hàng tháng trích lương chu cấp cho vợ con, lo dành
dụm tiền sửa nhà ở Tân An.
Tiền bối hay nhờ những người nghèo trong xóm đến làm
giúp vài chuyện lặt vặt, rồi trả công hậu hĩ. Đó là cách tế nhị, khéo léo che
giấu sự trợ giúp của mình.
Xử kiện trong địa phương, tiền bối rất thanh liêm,
công bình. Nói về tệ nạn kiện cáo, ca dao Việt Nam có câu :
Con kiến mà kiện
củ khoai,
Kiện đi kiện lại đã hai năm tròn.
Bây giờ kiến đã có con,
Củ khoai mọc mộng vẫn còn kiện nhau.
Thừa hiểu cái hại cho cả hai bên nguyên cáo và bị cáo
nếu bị nha lại lợi dụng, do đó tiền bối thường khuyên giải và xử hòa các vụ lặt
vặt. Những ai nghèo, cô thế, bị áp bức đều được tiền bối giúp.
Tại tỉnh Tân An, tiền bối từng thân hành đến làng
Thái Bình, tổng Mộc Hóa để điều tra vụ án hương chủ Hương ngộ sát thợ cày Vàng
rồi thông đồng với một cai tổng hầu chạy tội. Vụ án bị xếp lại qua hai đời chủ
quận, nhờ tiền bối công minh, hương chủ Hương phải nhận tội.
Một kẻ trộm bị tù, phải đi kéo quạt trong dinh quận.
Y khóc lóc xin tiền bối cho về nhà lo ma chay cha. Động lòng thương kẻ hiếu,
tiền bối chấp thuận. Ba ngày sau, tội nhân đã trở lại nộp mình đúng hẹn.
Có lần trộm đang tìm cách lẻn vào nhà tiền bối thì bị
lính tuần bắt. Sau khi ôn tồn mà nghiêm nghị giải thích điều hơn lẽ thiệt,
khuyên y cải ác tùng thiện, tiền bối cho tiền rồi tha về.
Với người ngoài tiền bối rất khoan thứ, nhưng với con
lại rất nghiêm. Khi con còn bé, có lần phàn nàn cha hay bố thí rộng rãi cho
người dưng mà ít chịu cho con tiền tiêu vặt. Tiền bối ôn tồn giải thích: “Các
con đã có cơm no, áo quần lành lặn, còn đòi hỏi gì nữa? Ba nuôi người bần khổ
là để dành đức lại cho các con đó.”
Dạy con, tiền bối thường nhắc câu Quan nhất thời, dân vạn đại 官一時, 民萬代 (Làm quan một lúc, làm dân muôn đời),
hoặc Thuyền dời chớ bến không dời,
ngụ ý khuyên các con đừng ỷ thế cha là chủ quận rồi làm quấy. Có lần cậu bé thứ
năm là Ngô Văn Nhựt cùng lũ trẻ tinh nghịch rủ nhau ăn trộm dưa. Cả đám bị bắt.
Tiền bối ra lệnh thả hết con người khác, riêng con mình vẫn bị giữ lại tới
chiều tối.
Tiền bối rất tiết kiệm. Ngày 12-10-1924, đang làm
việc ở Sài Gòn, tiền bối gởi thư về Tân An cho hai con gái (Ngô Thị Yến Ngọc và
Ngô Thị Nguyệt), dặn nhíp lại quần áo cũ của tiền bối để mặc tiếp. Tiền bối
khuyên con: “Phải biết tiện tặng [tặn] mà ở đời cho khỏi tiếng xấu hổ. Áo vải mà
no bụng khỏi bị ai kêu réo đòi nợ là tốt trong đời.” ([14])
Những nét phác họa về thân thế tiền bối Ngô Văn Chiêu
như trên cho thấy về phương diện đạo làm người, đối với gia đình, xã hội, đồng
bào, tiền bối đã là tấm gương trọn vẹn. Người công chức nhân hậu này đã chấp
nhận cuộc sống bình dị, nhưng lại vươn lên khỏi chỗ tầm thường của thói tục.
Với những đức tính như vậy, tiền bối đã có sẵn mọi
điều kiện thuận lợi để hướng vào cuộc sống tu hành, nhằm vào mục đích giải
thoát cho kiếp người khỏi vòng luân hồi sanh tử. Nhưng mãi đến năm bốn mươi ba
tuổi (1921) tiền bối mới bước vào đường đạo, được sự trực tiếp dìu dắt của Đức
Cao Đài qua cơ bút.
[1] Xem Phụ lục 1, tr. 38.
[2] Xem Phụ lục 2, tr. 38.
[3] R.B. Smith,
“An introduction to Caodaism”, BSOAS. University of London ,
Vol. XXXIII, Part 2, 1970, p. 338.
[4] Tân đáo 新到: mới đến. Sở Tân đáo là sở quản lý những người vừa
nhập cảnh, ngày nay gọi là sở di trú, sở quản lý nhập cảnh.
[5] Xem Phụ lục 3, tr. 39.
[6] “Những năm
khoảng trước 1925, trường cao đẳng dạy luật và hành chánh ở Hà Nội (école
supérieure de droit et d’administration) chưa đào tạo và cung cấp đủ người
dùng, thì chức huyện cũng được tuyển chọn trong hàng thơ ký soái phủ [Phủ
Thống đốc Nam Kỳ] lâu năm, nhưng bắt buộc
những người này phải qua hai kỳ thi đổ lửa.” Đó là (a) examen de culture
générale, khảo về học lực phổ thông; (b) concours professionnel, khảo về chuyên
nghiệp và khả năng. (Vương Hồng Sển, Hơn
nửa đời hư. Nxb Tp.HCM., 1992, tr. 234.)
[7] Paulus Của, Sách quan chế, 1888, tr. 13.
[8] Nguyễn Đình Diễn, Từ điển Công
giáo Anh-Việt. Hà Nội: Nxb Tôn giáo, 2002, “Caodaism”, tr. 103.
[9] Về các ngạch thư ký, tri huyện, tri phủ và đốc phủ sứ, xem: Paulus Của,
Sách quan chế, 1888, tr. 15.
Về các kỳ thi thăng trật và mức lương của tiền bối Ngô Văn
Chiêu, xem: Cơ quan Phổ thông Giáo lý Đại đạo, Lịch sử đạo Cao Đài. Quyển 1, Nxb Tôn giáo, 2005, tr. 352. Riêng mức
lương ngạch tri huyện hạng nhì (1917) và hạng nhất (1920) thì không đọc được rõ
con số trên ảnh chụp minh họa.
[10] Xem Phụ lục 4, tr. 40.
[11] Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời hư, 1992, tr. 240.
[12] Đồng Tân, Lịch
sử Cao Đài. Quyển I. Sài Gòn, 1967, tr. 129.
[13] Lịch sử
quan phủ Ngô Văn Chiêu. Sài Gòn: 1962, tr. 15.
Ngày
04-9-1946 hương chức làng Lợi Bình Nhơn, tổng Hưng Long, tỉnh Tân An có chứng
thực ông Ngô Văn Xuân chết tại làng này, nhưng không có sổ khai tử tại làng.
(Cơ quan Phổ thông Giáo lý, Lịch sử đạo
Cao Đài. Quyển 1, tr. 53, cước chú 15.)
[14] Cơ quan Phổ thông Giáo lý, Lịch sử đạo Cao Đài. Quyển 1, tr. 56.