NÓI THÊM VỀ CHỮ VÀ NGHĨA BÀI KINH
NGỌC
HOÀNG THIÊN TÔN BỬU CÁO
Tuy đã chú giải trọn bài kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo, nơi đây tôi muốn nói thêm về ba từ
này: bửu cáo, diệu diệu, và khôi mịch.
1. Bửu cáo
Bửu, bảo 寶: quý báu;
Cáo 誥: lời bề trên bảo kẻ dưới biết.
Bửu cáo: lời quý báu của bề trên bảo kẻ dưới
biết.
Bài kinh Ngọc Hoàng
Thiên Tôn Bửu Cáo do Đức Quan Đế (Quan Thánh Đế Quân) thỉnh Đức Phù Hựu Đế
Quân (Lữ Tổ) giáng cơ tả. Vì thế có thể hiểu nhan đề bài kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo là lời quý
báu của Đức Phù Hựu Đế Quân dạy cho chúng sanh biết để xưng tán Đức Ngọc Hoàng
Thiên Tôn.
2. Diệu diệu
Bài kinh Ngọc Hoàng
Thiên Tôn Bửu Cáo có hai câu:
Diệu diệu Huỳnh
Kim Khuyết,
Diệu 渺 là cách đọc quen thuộc, theo tập quán
của tín đồ Cao Đài. Phần lớn các tự điển và từ điển ghi cách đọc chữ 渺 là miểu,
diểu, diêu. Có thể coi cách đọc diệu là
biến âm (variante phonétique) của miểu, diểu, diêu. Vấn đề còn cần phải
đặt ra ở đây là nên hiểu diệu diệu
theo nghĩa nào.
Diệu có những cách
đọc khác và những nghĩa như sau:
(1) Diêu:
Nước chảy dài. Xa xôi. Nhỏ nhen. [Đào Duy Anh 1957: 212]
(2) Miểu:
Nước xa tít mù (man mác). [Thiều Chửu 1942: 353]
(3) Miao:
Lờ mờ. Vụn vặt, cực nhỏ.([2])
(4) Miao: nhỏ xíu, cực nhỏ. Miao
miao: Lờ mờ, không rõ nét.([3])
(5) Diêu [miao]: Mịt mờ, mịt mùng, mịt mù; nhỏ nhặt
không đáng kể... [Hầu Hàn Giang 1994: 459]
(6) Diểu 渺 là biến dạng (variante graphique) của diểu 淼. Diểu 淼 là biến âm (variante phonétique) của miểu,
có nghĩa: nước mênh mông, lờ mờ.([4])
Có thể thấy rằng những nghĩa từ (1) đến (6) dẫn trên
đều không dùng được cho câu Diệu diệu Huỳnh Kim Khuyết. Vậy, phải
tìm nghĩa khác của diêu.
(7) [Lương Thực Thu 1990: 616], mục từ 2973, cho biết
nghĩa đầu tiên [đánh số 1] của miao 渺 là endlessly long or vast.
(8) [Gustave Hue 1937: 211] còn giảng diểu 渺 là vaste.
(9) [Mathews 1931: 628], mục từ 4477, giảng miao 渺 là: vast,
boundless; giảng 渺渺乎 là: How boundless!
Căn cứ theo nghĩa (7), (8) và (9) trên đây, nên hiểu diệu là boundless (vô biên; khổng lồ);([5]) là vast
(rất lớn về bề mặt, kích thước, số luợng hay mức độ; khổng lồ; rất to tát, rất
vĩ đại).([6])
Vậy, Diệu diệu
Huỳnh Kim Khuyết nghĩa là: To tát, vĩ
đại thay Huỳnh Kim Khuyết; và Nguy
nguy Bạch Ngọc Kinh là Vòi vọi, nguy
nga thay Bạch Ngọc Kinh. Như thế, diệu
diệu và nguy nguy đều diễn tả sự to tát vĩ đại, sự nguy nga vòi vọi; hai
nghĩa này không mâu thuẫn nhau, làm thành cặp đối.
3. Khôi mịch
Bài kinh Ngọc Hoàng
Thiên Tôn Bửu Cáo có hai câu:
Trạm tịch chơn
đạo,
Khôi mịch tôn
nghiêm.([7])
Mịch 漠 là cách đọc quen thuộc của tín đồ Cao Đài.
Các từ điển hay tự điển cho biết rằng 漠 đọc là mạc.([8]) Vậy, phải đọc 恢漠 là khôi
mịch hay nên sửa lại là khôi mạc?
Đọc khôi mạc
thì phù hợp với cách đọc thường ghi trong hầu hết từ điển hay tự điển. Nhưng, qua
hơn tám mươi năm mở đạo Cao Đài, cách đọc khôi
mịch đã thành thói quen, khó sửa lại, phải chấp nhận cách đọc này. Vấn đề
là nên hiểu khôi mịch theo nghĩa nào.
Một số tác giả chú giải bài kinh Ngọc Hoàng Thiên Tôn Bửu Cáo thường hiểu mịch 漠 theo nghĩa 寞 là tịch
mịch, im ắng, yên lặng...
Nhưng câu kinh trước đó đã nói tịch 寂 là lặng lẽ, im
lìm. Do đó, nếu giảng mịch 漠 cũng là im lặng,
vắng vẻ thì điệp ý với chữ tịch ở trên.
Vậy nên giảng tịch
đi cặp với trạm và giảng mịch đi cặp với khôi:
- Trạm 湛 ngoài nghĩa là trong trẻo, không bợn nhơ còn có nghĩa là sâu dày. Trạm tịch 湛寂 là lặng lẽ sâu
kín.
Những điều trình bày trên đây có tính trao đổi thêm
về cách hiểu ba từ bửu cáo, diệu diệu,
khôi mịch trong bài Ngọc Hoàng Bửu
Cáo, xem như một tham khảo đóng
góp cho việc chú giải bài kinh này nói riêng, hay Kinh Cúng Tứ Thời nói chung.
Phú
Nhuận, 25-11-1997
HUỆ
KHẢI