Trách
nhiệm của cha mẹ
đối với
con nhà đạo
1. Cần ý thức rằng con nhà
đạo là tương lai đất nước và của đạo Cao Đài
Đức Cao Triều Phát nhắc nhở:
“Trong một đời người, tuổi thanh niên là mùa
xuân, là phát huy, là sáng tạo. Do đó, thanh niên cần phải được vun quén, tổ
chức, giáo dục, chăm sóc và thúc phát mọi mặt. Người đi trước phải dọn đường
sửa lối cho kẻ theo sau, làm thế nào khai thác những bẩm sinh, những khả năng
từ thuở thanh thiếu niên. Vì thanh thiếu niên là những gì đang chờ đợi kết quả
ở tương lai.
“(...) Bất cứ một gia đình,
quốc gia, xã hội và nhân loại nào, dầu ở quá khứ hiện tại hoặc vị lai, [đều] phải ý thức và kỳ vọng ở thanh thiếu niên.
Chẳng khác nào [trồng] cây, đem hột đi ươm lên thân cây con. Tùy sự chăm sóc, kết quả của cây xấu hoặc tốt
phần lớn do chủ vườn chăm sóc.” ([1])
Thế nhưng không phải
tất cả các bậc cha mẹ nhà đạo cũng như các bậc huynh trưởng trong họ đạo hay
thánh sở đều có ý thức sớm dạy dỗ con cái và đàn em hậu tấn nối tiếp con đường
đạo đức của ông cha. Thông thường bổn
đạo không ý thức việc tạo lực lượng kế tục, không nghĩ sâu xa, chỉ bằng lòng
với việc ăn hiền ở lành. Trước thực trạng này, Đức Linh Quang Thổ địa
dạy:
Bổn đạo chỉ biết tu hiền,
Ăn chay niệm Phật Thánh Tiên hằng ngày.
Mà không nghĩ việc tương lai,
Do đó, Đức Thiện Hạnh
Đồng tử có lần vừa dạy con nhà đạo ý thức duyên phước được sinh ra trong gia
đình biết tu hành, vừa nhắc nhở các bậc cha mẹ hãy có trách nhiệm dìu dắt đàn
hậu tấn:
“Nơi đây Tiểu thánh
muốn lưu ý đến quý huynh đệ tỷ muội trong giới thanh niên, thiếu niên và ấu
niên. Nhờ có tiền duyên chằng chịt liên hệ nên hiện kiếp đã được sinh trưởng
trong gia đình cha mẹ hoặc anh chị biết đạo lý tu hành, hoặc sớm gặp hoàn cảnh
thuận tiện để có cơ hội dễ bề khai triển thánh tâm, phát huy thánh đức, thực
hành Thánh đạo, rồi lần hồi đến Tiên đạo và Phật đạo.
“Nói như vậy để
nhắc chừng chư liệt vị lưu ý đến hầu nâng đỡ dìu dắt đàn hậu tấn để khỏi trễ
tràng hoặc phí uổng một kiếp làm người của thế hệ ấy.” ([3])
2. Cha mẹ có trách nhiệm với các chơn linh đã sinh vào nhà mình
Câu nói của Đức Thiện Hạnh Đồng tử
rằng cha mẹ đừng để con cái “trễ tràng
hoặc phí uổng một kiếp làm người” có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, các
bậc cha mẹ nên nhớ rằng con cái mình về phần thiêng liêng là các chơn linh.
Thật vậy, một đứa con sinh
trong gia đình người đạo Cao Đài không phải là tình cờ. Khi một hạt giống
nguyên nhân “đầu thai” vào cõi trần, điểm chơn linh ấy thường được “gởi thân”
vào nhà có đạo. Nếu được nuôi dưỡng và giáo dục tốt, đúng đạo lý thì sau này
các chơn linh ấy sẽ là những vị nhận lãnh sứ mạng hướng đạo, hành đạo, hoằng
giáo trong Đại đạo Tam kỳ Phổ độ.
Xét về huyết nhục, họ là
con cái mình, nhưng xét về mặt chơn linh và sứ mạng mà chơn linh ấy đã thọ lãnh
từ Thiên đình trước khi xuống thế kiếp này, đâu ai biết được chơn linh ấy là
nhỏ hay lớn. Có thánh giáo minh chứng điều này.
Đức Hiển Thế Đạo nhơn, thế
danh Phan Văn Thanh, nguyên là đầu họ đạo trước tiên của thánh tịnh Ngọc Minh
Đài. Trong một lần giáng đàn ở chốn cũ,
Ngài đã gọi tên người cháu đang tiếp nối đạo nghiệp của Ngài khi trước: “Chí Thành Nguyễn
Quan Sanh! Tuy phần nhục thể là dượng và cháu, phần chơn linh chưa
biết ai lớn nhỏ hơn ai.” ([4])
Ngoài nhiệm vụ Đầu họ đạo thánh tịnh Ngọc Minh Đài,
đạo trưởng Chí Thành còn là Hiệp lý Minh đạo của Cơ quan Phổ thông Giáo lý. Sau
khi quy thiên, đạo trưởng được Đức Chí tôn ban phong phẩm vị Thuận Hạnh Huệ tiên
(1995). Lời nói của Đức Hiển Thế Đạo nhơn
đã ứng nghiệm.
Tóm lại, nếu cha mẹ không
thật sự tu hành thì cuộc sống hàng ngày của cha mẹ không thể làm gương mẫu để
“thân giáo” được các con. Hậu quả là các chơn linh đã mượn nhà mình nương thân
không được cảm hóa để sớm biết tu thì cha mẹ rất có lỗi với Đức Thượng đế và
rất thiếu sót trách nhiệm với các chơn linh ấy.
3.
Cha mẹ trước tiên phải là gương mẫu đạo đức để hướng dẫn con cái biết tu
Muốn trở nên gương mẫu đạo đức cho con
cái noi theo, trước tiên cha mẹ phải biết tu hành chơn chánh. Cha mẹ biết tu
còn có trách nhiệm dẫn dắt con cái cùng tu.
Nếu chỉ cha mẹ biết tu mà con cái trong nhà không tu,
ít nhất sẽ có hai tác hại:
- Hiện kiếp con cái khảo đảo cha mẹ, cản trở cha mẹ
tu hành.
- Hậu kiếp con cái chịu quả báo, cha mẹ dẫu có về cõi
thượng e rằng cũng khó lòng thanh thản.
Lấy
thí dụ trường hợp của Đức Linh Ứng Tôn thần (ông nội của đạo huynh Thiên Nhựt
Quang, nguyên là Minh tra ở Cơ quan Phổ thông Giáo lý). Có lần Đức Tôn thần giáng đàn than thở khi
thấy trong số các nhục tử của Ngài có người không tiếp tục truyền thống đạo
nghiệp của cha:
Cha tự hỏi lẽ đâu
trái cách,
Cha
làm thầy, bán sách bởi con?
Vì thương méo sửa
ra tròn,
Cha mẹ cần thấy rằng giữ gìn truyền thống tu hành đạo
đức chính là xây đắp hạnh phúc cho gia đình. Đức Đại tiên Lê Văn Duyệt dạy:
“Theo thông
thường, gia đình có đạo, con cái được cha mẹ huấn luyện vào hàng đạo đức, đó là
một hạnh phúc.” ([6])
Nhiều năm sau, Đức Đại tiên Lê Văn Duyệt lại dạy:
“Người
cha đạo đức sẽ gieo lên hạt giống đạo đức. Truyền thống đạo đức là một điều
kiện bảo đảm tương lai vững chắc. Cũng
có lắm gia đình cha hành đạo, con lại sa đọa, theo thói hư tật xấu ngoài đời.
Đó không phải tựa vào thuyết nhân quả để bào chữa cho hiện tại, mà do sự bất
lực của người cha thiếu giáo huấn, từ gia đình đến xã hội quốc gia cũng không
ngoài cái lý ăn trái bỏ hột mà thôi.” ([7])
Đức Quan Âm Bồ tát dạy:
“Trên đường đời
cũng như trong cửa đạo, nhiều trường hợp hay trái ngược nhau. Ông bà cha mẹ tu
hành, cháu con lại không gìn giữ gốc thiện. Trái lại còn khảo đảo sự tu hành
của cha mẹ là một đàng khác. Lỗi đó không phải tự chúng, mà tự gia giáo đó
thôi. Vô tình cha mẹ độc thiện kỳ thân lo việc lớn mà quên việc nhỏ, nhưng việc
nhỏ rất cần để làm rường cột cho thế hệ phổ đạo ngày mai.” ([8])
Tuy nhiên, nhiều bậc cha mẹ dẫu kêu gọi con cái bước
vào đường đạo nhưng không có khả năng thuyết phục con cái. Một trong nhiều
nguyên do chủ yếu là vì hàng ngày con cái kề cận bên cha mẹ, các khuyết điểm
của cha mẹ thường khó che giấu con cái được. Nói khác đi, con cái chưa nhìn
thấy ở cha mẹ một tấm gương sáng để chúng noi theo. Cho nên muốn hướng dẫn con
cái mình tu thì trước tiên bản thân cha mẹ phải tự làm gương. Cha mẹ cần chứng
tỏ bằng cuộc sống hàng ngày cho con cái thấy rõ cha mẹ chúng là người đạo đức,
tu hành chân thật. Đức Mẹ dạy:
“Hỡi các con! Điều Mẹ giải dẫn hôm nay là
để các con tự xét mình hay nhìn lại bản thân và tâm trí của mình để làm một tấm
gương cho mai hậu của đoàn măng non mà chính các con đã gây tạo ra.” ([9])
Thế gian hay nghĩ rằng thương con
thì lo để của cải, gia sản cho con. Nhưng Đức Mẹ dạy:
Các bậc cha mẹ cần suy gẫm thấu
đáo lời Đức Minh Đức Đạo nhơn (thế danh Lê Văn Còn, Thượng giáo sư Hội thánh
Ban chỉnh đạo Bến Tre) dạy hai nhục tử của Ngài bấy giờ đang là hai vị đạo
trưởng đáng kính trong hàng lãnh đạo của Cơ quan Phổ thông Giáo lý. Tuy Đức Đạo
nhơn dạy việc riêng trong nhà, nhưng lời giáo huấn của Ngài hoàn toàn phù hợp
để thi hành trong mọi gia đình người đạo Cao Đài:
“(...) hai con! Cha đã mừng thấy hai con được nối chí của cha mà hành đạo, cố
gắng vượt mọi khó khăn thử thách từ nội gia, nội bộ Cơ quan
đến ngoại cảnh để đạt được những gì tốt đẹp hiến dưng Chí tôn Thượng đế.
“Hai con đã xứng
đáng là con hiếu thảo của cha để không hổ thẹn với câu ‘Lập thân hành
đạo dương danh ư hậu thế, dĩ hiển kỳ phụ mẫu chi thị dã.’ ([11])
Nhưng còn có một chút nữa mà cha không
thể không nói ra đây, vì không nói e hai con quá bận việc rồi quên đi. Đó là về
mặt nhân đạo ở cương vị làm con hiền.
“Hai con đã báo
hiếu cha mẹ trong việc hồi hướng công quả rồi. Ở cương vị người chồng, mấy lúc
sau này hai con đã tỏ ra xứng đáng hơn trước. Ở cương vị một người cha, hai con
đang lo tạo sự nghiệp cho con cái. Theo thế nhân như vậy cũng quý rồi. Nhưng ở
cương vị thế Thiên hành hóa, phổ truyền đạo lý, độ dẫn nhơn sanh thì hai con
còn vướng một chút đó. Nếu làm được, ôi quý biết bao!
“Như hiện giờ hai
con đang xây dựng sự nghiệp to lớn lâu dài cho con cái, nhưng [hai] con không hướng dẫn [chúng] nó song song với sự nghiệp đạo đức tinh
thần, tâm linh bổn giác thì chẳng khác nào hai con cố gắng
đóng cho chúng những chiếc đại thương thuyền để vượt trùng dương nhưng không
dạy chúng biết cách sử dụng của người thuyền trưởng. Rồi khi vượt đại dương gặp
phong ba bất trắc chúng nó biết làm sao, hỡi hai con? Cũng như sắm phi cơ phản
lực siêu thanh cho chúng nhưng chúng không biết điều khiển, sử dụng cái quyền
của người hoa tiêu rồi làm sao?
“Hai con nhờ tiền
kiếp có tu nhiều nên kiếp này cơ duyên đưa đến sinh trưởng vào dòng họ nhà ta
để gặp cha đỡ đầu dắt dìu cho đến ngày nay cho nên danh
nghiệp, thì hai con cũng phải dìu dắt, đỡ đầu chúng nó như cha đã đỡ đầu hai
con. Nếu không làm được việc ấy là độc thiện kỳ thân ([12]) đó hai con ơi.
“Dầu sự nghiệp
cách mạng, dầu sự nghiệp đạo đức cũng vậy. Phải có ý hướng cha truyền con nối,
tre tàn măng mọc mới nên mới trọn vẹn đó hai con. Hai con nên bảo chúng nó gần
gũi Cơ quan đạo, gần gũi đệ huynh để tập sự. Tập sự lần lần như con cái của các
nhân viên khác đó.
“(…) Đừng ai
tưởng rằng mình hành đạo là chỉ để tu thân mà thôi, nếu tu được thì tốt riêng
cho mình, không tu được thì cũng chẳng hại chi ai! Nếu tưởng vậy là sai lầm.
Hành đạo đâu phải chỉ đóng khung trong thánh thất, thánh đường, chùa chiền, am
tự. Hành đạo là xây dựng cả một thế hệ và những thế hệ tiếp nối mãi mãi. Hành
đạo là gieo giống lành cho đất nước, cho dân tộc đó vậy.
“Hai con đừng
nghĩ rằng hễ đứa nào thích thì bắt đầu nâng đỡ chúng, còn đứa nào không thích
thì thôi chớ biết làm sao bây giờ! Đừng nói thích hay là không thích. Thử hỏi
những đứa trẻ mới sinh đâu có biết hoặc ưa thích gì những thứ nào là ăn trầu,
hút thuốc, nha phiến, ghiền rượu, đánh bạc… đâu. Nhưng vì hễ vào đời, gần mực
thì đen, gần đèn thì sáng. Trong lúc hai con lo phổ độ chúng sanh đó đây khắp
các nẻo đường, nỡ nào bỏ quên chúng sanh bên cạnh hai con. Làm sao khỏi uổng
công tạo hóa chúng mới thật là hai con chí hiếu đó vậy. Thôi tâm sự còn dài
nhưng thời gian đã hết.”([13])
Lời dạy trên đây
của Đức Minh Đức Đạo nhơn, nhất là chỗ “(…) đừng nghĩ rằng hễ đứa nào thích thì bắt
đầu nâng đỡ chúng, còn đứa nào không thích thì thôi chớ biết làm sao bây giờ!
Đừng nói thích hay là không thích ...” khiến các bậc cha mẹ cần phải lưu ý
rằng nên hướng dẫn con cái biết sinh hoạt đạo đức với một thánh sở càng sớm
càng tốt. Tuổi của con cái càng lớn thì thường càng khó dạy bảo. Uốn tre từ thuở
tre non.
Thông thường con cái hay nghịch lẫn cha mẹ, phàn nàn
rằng cha mẹ “xâm phạm tự do cá nhân” của mình. Có khi con cái ương ngạnh còn
đem… “hiến pháp” ra nói rằng cha mẹ phải “tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và
tự do không tín ngưỡng” của chúng. Gặp trường hợp như thế, cha mẹ cần nhẫn nại
và nhớ lời Đức Hiệp Thiên Đại đế Quan
Thánh Đế quân dạy:
“Thế gian cha mẹ nào lại không thương con, muốn con được nên văn nên võ,
đạo nghiệp thế nghiệp song toàn, trước tự hưởng lấy thân, sau làm vinh quang
cho thế tộc. Thế mà nào phải mỗi đứa con nào cũng đều có ý thức như vậy đâu.
Trái lại, chúng còn cho rằng kỷ luật gia môn nghiêm khắc, bắt chúng phải làm
thế này, thế nọ mất cả tự do, nhưng chúng nào biết đâu đó là tự do trong phóng
túng, trong hư hỏng, trong sa đọa.” ([14])
Đức Linh Ứng Tôn thần và Đức Minh Đức Đạo nhơn
không phải là hai trường hợp duy nhất minh chứng rằng tuy đã về cõi thượng
nhưng lắm khi các đấng vẫn còn phải “bận lòng” với tử tôn huyết nhục. Chẳng hạn, Đức
Hiển Thế Đạo nhơn nhân khi có dịp trở về trần gian đã nhắn nhủ gia nội vào đầu
tháng 4 Kỷ Dậu:
“Hiền nương Diệu Hạnh! Sao hiền nương
không dạy bảo con Lan và chồng của nó có mặt những ngày đàn để nhờ ân điển
thiêng liêng chan rưới cho chúng nó. Dầu sao chúng nó cũng có căn xưa, nhưng vì
tuổi trẻ còn đang tranh cạnh với đời. (…) Hiền nương có nhắc và
khuyên, chúng nó mới nghe theo và lấy đà mà tiến tới.” ([15])
Đến cuối năm Kỷ Dậu ấy, Đức Hiển Thế Đạo nhơn lại dặn
dò tiếp:
“Điều cần yếu là con cái trong gia đình.
Hiền nương thay mặt Tệ huynh có bổn phận dìu dắt chúng nó kẻo tội nghiệp. (...)
Vì còn dính líu chút bổn phận nên mới dặn dò. (…) Vì thương để lời nhắc nhở
khuyến khích chớ không ai có thể gánh vác cho ai về phần nghiệp quả.” ([16])
Một trường hợp khác là Đức Bảo pháp Chơn quân (Huỳnh Chơn Tạ Đăng
Khoa). Ngài giáng đàn và dạy bạn đời khi trước hãy đem cháu nội vào Cơ quan Phổ
thông Giáo lý để tập dần cho quen với sinh hoạt đạo đức:
“Sau
cùng Bổn huynh nhờ chư hiền muội [Nữ chung hòa Cơ quan Phổ thông Giáo lý] chuyển lời Bổn huynh đến hiền nương Diệu
Lý, dặn hiền nương và các con hãy bình tĩnh trước mọi sự thử thách, lấy đạo tâm
làm thế tựa, và đem thằng Khải đến sinh hoạt thiếu nhi với thanh thiếu niên Cơ quan
để tập lần nếp sống đạo đức.” ([17])
Có đấng, khi
tại thế tuy siêng tu học và hành đạo, nhưng trót thiếu sót bổn phận với gia
đình. Vì thế sau khi quy thiên lại phải cầu xin hồng ân của Đức Chí tôn cho
phép giáng trần để dạy khuyên gia đình. Tiêu biểu là trường hợp sau:
“Vậy giờ nay Thầy cho chơn linh
Phan Văn Sử tá cơ để nhắn nhủ
gia đình. Vì Sử ở thế có lòng tu chơn
hành đạo, trọn đức tin với Thầy nhưng không độ được trong gia đình đó là thiếu
bổn phận.” ([18])
4. Cha mẹ cần sớm
hướng dẫn con cái nhập môn
Đức Đô thống quản địa thần khi tại thế là đạo trưởng
Hồng Phước (thế danh Hoàng Ngọc Tạo), chức vụ Minh tra của Cơ quan Phổ thông
Giáo lý. Con gái của đạo trưởng là đạo tỷ Bạch Hiển (thế danh Hoàng Thị Tuyết
Vân). Con rể đạo trưởng là đạo trưởng Minh Lý (thế danh Đỗ Vạn Lý), Tổng thơ ký
của Cơ quan Phổ thông Giáo lý. Thông gia của đạo trưởng là đạo trưởng Đỗ Thuần
Hậu đắc quả Huyền Pháp Đạo nhơn. Trong một dịp giáng đàn, Đức Đô thống quản địa
thần hé lộ:
“Lời nói tiếp
theo đây cho nhục tế Minh Lý
[Đỗ Vạn Lý] và nhục nữ Bạch Hiển [Hoàng Thị Tuyết Vân] được mừng một tin trong gia quyến. Nguyên vừa rồi Ta có đi dự Đại hội
thất thập nhị địa quần tiên, trong đó có mặt thông gia Đỗ Huynh [Đỗ Thuần
Hậu]. Tuy bận rộn phúc trình của mỗi
người, nhưng Đỗ huynh cũng có nhắn vói vài lời cho Võ Thị hiền tỷ hay rằng đang lúc này cả gia quyến sống trong thời kỳ mạt kiếp. Hãy
sớm sớm (cũng hơi muộn màng), nhập môn cầu đạo để nhờ tấm thân, vì không biết
ai có thừa phúc đức để che chở cho ai. Tự tu tự cứu.” ([19])
Vì việc nhập môn của lớp trẻ rất quan trọng cho nên
có lần Đức Giáo tông Vô vi Đại đạo dạy Cơ quan Phổ thông Giáo lý phải giúp cho
gia đình các nhân viên đưa con cái đi nhập môn tập thể:
Cần lo việc nhập
môn tổng hợp,
Cho con em
các lớp nhân viên,
Cha tu con
phải được hiền,
Có thể nói, lo cho con cái sớm nhập môn là đeo
cho chúng cái phao cứu sinh (lifebuoy) vì cha mẹ làm sao biết được con
cái mình sẽ gặp giông bão lúc nào. Giúp trẻ sớm nhập môn là cách bảo toàn cho con
cái khỏi cơn sàng sảy của thời hạ ngươn mạt kiếp.
Đức Giáo tông Vô vi
Đại đạo dạy:
Phải nhớ rằng những phần tuổi trẻ,
Giữa trường
đời ắt sẽ gian nguy,
Vì chưng thế
cuộc hạ kỳ,
5. Cha mẹ hãy có ý thức hướng nghiệp cho con cái
Trên
nguyên tắc, làm ăn lương thiện thì nghề nào cũng quý. Tuy nhiên trong gia đình
nhà đạo, bản thân cha mẹ chẳng những không hành nghề trái luật đạo mà còn ý
thức sớm hướng dẫn cho con cái khi ra đời cũng phải biết chọn nghề gì không
trái đạo. Chẳng hạn, đã là con nhà đạo thì đừng làm bác sĩ phá thai, đừng kinh
doanh lò mổ gia súc, gia cầm, cũng đừng mở quán nhậu, v.v…
Ra đời
năm 1926, trong Tân luật Cao Đài, nơi
phần Thế luật (điều thứ hai mươi) đã
quy định:
“Kể từ ngày ban hành luật này, người bổn đạo
chẳng nên chuyên nghề gì làm cho sát sanh, hại vật; chẳng được làm nghề gì mà
tồi phong bại tục; chẳng được soạn hay là ấn hành những truyện phong tình, huê nguyệt, không đặng buôn bán các thứ
rượu mạnh và á phiện là vật độc làm cho giảm chất con người.”
Cha mẹ
cũng nên giúp cho con cái hiểu rằng sẽ có nghề giúp các con mình dễ dàng “hái”
ra tiền, nhưng hãy cẩn thận vì có khi chính những nghề ấy rất dễ dẫn dắt con
cái mình xa rời chánh đạo, tức là sẽ không còn là con nhà đạo!
Ngoài ra
sẽ có nghề khiến con cái mình vẻ vang trên trường đời danh lợi, nhưng lại cuốn
hút con cái mình vào vòng xoáy đấu tranh giành giật. Bản thân chúng không còn
thời gian dành cho tu học thì còn mong gì góp phần chút ít phụng sự cho đạo.
Do đó
bản thân cha mẹ nên giúp cho con cái biết chọn nghề gì để sống được đàng hoàng,
có nhân cách và còn điều kiện thời gian, tim óc, sức khỏe để tu học và hành
đạo. Tóm lại, cần giúp con cái hiểu rằng hãy chọn nghề gì để đừng hối tiếc khi
đến cuối đời, tuy sống trên đống vàng mà tâm hồn thì buồn đau. Thánh Françoise
Xavier từng nhắc nhở:
Dầu cho được cả thế gian này mà đánh mất linh
hồn mình thì cũng chẳng ích gì!
6. Cha mẹ hãy có ý thức hướng dẫn con cái chọn bạn đời
Thầy
dạy:
Kìa biển hẹn non thề phải dứt,
Có một
số trường hợp con cái có đại căn và được Ơn Trên soi sáng để sống theo “ơn
gọi”, tức là sẽ chọn đường độc thân hành đạo. Khi ấy cha mẹ nên tạ ơn Trời Phật
và phải tích cực ủng hộ con đường lý tưởng cao cả của con cái.
Còn theo
lẽ thường, cha mẹ rất cần quan tâm hướng dẫn con cái trong việc yêu đương và
kết hôn. Vấn đề đặt ra là người phối ngẫu của con cái mình có cùng đạo Cao Đài
như gia đình mình hay không.
Tân luật
Cao Đài, nơi phần Thế luật (điều thứ sáu) đã quy định rõ:
“Việc hôn ([23]) là việc rất trọng đời người. Phải chọn hôn
trong người đồng đạo; trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới
được kết làm giai ngẫu.”
Thực tế
cho thấy, vẫn có không ít trường hợp cha mẹ là chức sắc hay chức việc nhưng con
nhà đạo gốc lại kết hôn không theo quy định Tân luật. Hệ quả là có khi con cái
phải cải đạo, trở thành tân tòng theo yêu cầu ràng buộc của gia đình người phối
ngẫu.
Có khi
họ tạm thỏa thuận nguyên tắc “đạo ai nấy giữ” nhưng trong nhà vẫn khó lập Thiên
bàn, khi đau yếu, từ trần không được vợ (hay chồng) chấp thuận cho làm các bí
tích của Cao Đài. Thậm chí muốn ăn chay cũng không được ủng hộ. Vợ hay chồng
muốn đi thánh thất tu học, hành đạo phải lén lút. Sự mâu thuẫn càng căng thẳng,
gay go hơn khi hai người có con, và nảy sinh tranh chấp là con cái sẽ theo đạo
của cha hay đạo của mẹ. Trong hoàn cảnh ấy, gia đình luôn luôn dễ bị xào xáo vì
nội chiến tín ngưỡng.
Đây là
vấn đề rất nhạy cảm. Đức Giáo tông Đại đạo Thái Bạch Kim tinh dạy:
“Phần nhiều gia đình Thiên phong chức sắc,
chức việc, đến hàng đạo hữu, cha mẹ có đạo Cao Đài, con cái lại đi đạo khác,
rồi trở về chống đối lại đường lối hành đạo của mẹ cha. Vẫn biết đạo nào cũng
quý, cứu cánh cùng rốt cũng như nhau. Điểm đề cập nơi đây là khía cạnh giáo dục
của phận làm cha mẹ.” ([24])
Thế nên,
khi cha mẹ đưa con cái làm quen với môi trường học đạo tại thánh sở của mình,
đó cũng là tạo cơ hội cho con cái sống trong môi trường đạo đức. Con cái mình
sinh hoạt thanh niên trong môi trường đồng đạo đương nhiên dễ có điều kiện
thuận lợi để quen biết và tìm hiểu nhau. Cha mẹ hai bên lại cùng chung họ đạo,
tình đồng đạo khăng khít mà trở thành tình thông gia hòa hảo nữa thì rất hay.
Cha Cao
Đài, mẹ Cao Đài, nuôi dạy con cái trở thành tương lai kế truyền Cao Đài. Đó là
con đường thế đạo để sau này có thêm những “Cao Đài tử” làm lực lượng kế thừa,
làm thế hệ tiếp nối cho nhà đạo. Tân luật quy định:
“Phải chọn hôn trong người đồng đạo; trừ ra
khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới được kết làm giai ngẫu.”
Cha mẹ
nên dành thời gian giải thích cho con cái hiểu rằng điều này không hề mâu thuẫn
với tinh thần hòa đồng tôn giáo của đạo Cao Đài. Đồng thời cha mẹ nên giảng cho
con cái hiểu về luật nhân quả.
Cá nhân
mỗi người sống trên thế gian đều phải trả nghiệp riêng (biệt nghiệp: individual karma), ngoài ra còn phải
chịu nghiệp chung (cộng nghiệp: collective
karma).([25]) Kết hôn với ai, thì đương nhiên con mình phải gánh
vác thêm phần nghiệp riêng của người phối ngẫu và kể cả phần nào nghiệp riêng
của gia đình người phối ngẫu.([26])
Do
đó, việc kết hôn với người đồng đạo về căn bản là dễ tìm thấy một gia đình đạo
đức, ngăn ngừa nội chiến tín ngưỡng trong gia đình sau này. Chia sẻ cộng nghiệp với một gia đình đạo đức đã
thọ ơn đại ân xá kỳ Ba dầu sao vẫn tốt hơn là phải gánh chịu cộng nghiệp với
một gia đình kém đạo đức.
7. Cha mẹ thường khó hướng dẫn con cái tu học do đó cần nương nhờ ở thánh sở
Do thiếu thời gian,
do khả năng diễn đạt hạn chế, do trình độ giáo lý chưa đủ, và cũng có thể do
thiếu nhẫn nại, thông thường cha mẹ rất khó có thể tự mình hướng dẫn con cái tu
học hiệu quả và trọn vẹn.
Đức Vạn Hạnh Thiền sư
nhận xét:
Giải quyết vấn đề
này cha mẹ cần nhờ cậy thánh sở. Ngược lại, thánh sở cũng phải ý thức đây là
nhiệm vụ đương nhiên để trợ giúp thành viên trong họ đạo của mình. Cha mẹ cần
đưa con cái đến thánh sở thì bản thân thánh sở phải chuẩn bị sao cho đủ điều
kiện để tiếp nhận các mầm non của đạo.
Đức Lý Giáo tông dạy:
“Chư hiền đệ muội
luôn luôn ghi nhớ nguyên tắc tre tàn măng mọc và phải có phương pháp nuôi dưỡng lớp măng ấy
theo đường lối tổ chức có chuẩn thằng quy củ, theo đường lối chánh đạo trong
quyền pháp đạo luật.” ([28])
Đức Lý Giáo tông cũng dạy (1970):
“Thánh thất là trường giáo dân. Ngoài
chỗ thờ phượng tôn nghiêm đơn giản, nếu mỗi thánh đường dùng mọi trang trí lộng
lẫy huy hoàng tôn nghiêm tráng lệ mà chung quanh vùng đó chưa có nhiều người
vào đạo, hiểu đạo, thậm chí đến con em trong gia đình hướng đạo cũng không được
sự dạy dỗ đạo lý, đó là trái với mục đích mở đạo của Thượng đế Chí tôn.
“Bần đạo muốn thấy mỗi một thánh thất, thánh tịnh ý thức thể
hiện được một hình thể tạm gọi là trường giáo dân. Trước nhứt là giáo dục con
em trong gia đình đạo hữu để làm đà tiến cho các lãnh vực rộng rãi khác
trong khuôn viên đạo đức.”
Trong thực tế, do nhiều nguyên nhân hay hoàn cảnh khác nhau, vẫn không
tránh khỏi có một số thánh sở quá ơ thờ trước trách nhiệm tiếp sức cha mẹ hướng
dẫn đạo đức cho lớp măng non.
Đức Linh Quang Thổ địa
than thở:
Nhìn thế sự rồi nhìn
trong đạo,
Khắp đó đây hoài bão đạo Trời,
Nhưng không mấy chỗ để lời,
Luyện rèn đào tạo lớp người
tương lai.
Để khi quý vị chầu Thầy,
Hậu quả là con cái
được cha mẹ đưa đến thánh sở, nhưng lại chẳng được trang bị vốn liếng đạo lý,
và không hiểu biết giáo lý. Nói về thực trạng này, Đức Lý Giáo tông dạy:
“Đa số lớp trẻ đi
chùa thất tụng kinh làm đám nhưng có ai hỏi tại sao vào đạo thì chúng trả lời
mỗi đứa khác nhau.
“Đứa thì vào đạo vì
thấy trang lứa muốn vào cho vui. Đứa thì tại cha mẹ bảo không dám cãi. Đứa thì
thấy cha mẹ làm thì bắt chước nhưng không biết để làm chi. Đứa thì vì sợ quỷ ma
dẫn hồn xuống địa ngục nếu không cầu cạnh với Thiêng liêng. Đứa thì sợ tai bay
họa gởi. Đứa muốn được may mắn mọi sự trên đường đời nhờ có công đi chùa thất.
Không nghe đứa nào nói đến nhiệm vụ giáo dân vi thiện hay hoàn thiện hóa bản
thân, hay nhờ đạo đức hóa mọi nếp sinh hoạt xã hội quốc gia để an bình thạnh
trị cho non sông tổ quốc.
“Đừng ai quy lỗi
hoặc trách cứ tại sao chúng nghĩ vầy mà không nghĩ vậy. Vì tổ chức từ cấp lãnh đạo tinh thần thiếu sót khiến cha mẹ chúng chẳng
có đường lối hoài bão hướng thượng rồi bảo sao chúng lại có được tinh
thần ấy.” ([30])
Ngay ngày mới khai
Đạo, Đức Chí tôn đã sớm khuyên dạy các bậc hướng đạo phải làm gương đạo đức để
hướng dẫn các chơn linh đang là mầm non trong thánh sở, trong gia đình đạo hữu.
Tuy đàn trẻ ấy không
phải là huyết nhục, nhưng công đức giáo hóa cho lớp trẻ để tiếp sức với cha mẹ
chúng có ý nghĩa và giá trị rất lớn, cũng sánh ngang hàng công sinh đẻ ra các
trẻ. Hơn nữa còn là công đức bảo tồn và trưởng dưỡng điểm linh quang trong mỗi
trẻ ấy.
Thầy bảo:
Dạy trẻ, con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Đạo đời tua biết rằng đời trọng,
8. Thay lời kết
Nuôi dạy lớp trẻ nhà đạo không còn là
việc riêng của cha mẹ hay thánh sở. Cả hai bên đều phải chung đồng trách nhiệm
và nâng đỡ lẫn nhau:
Cha mẹ gởi con đến thánh sở thì thánh
sở phải cố gắng sao cho thật sự xứng đáng với lòng tin cậy và kỳ vọng của tín
hữu.
Ngược lại, một khi thánh sở đã biết
chăm lo mở lớp đào tạo con em trong họ đạo thì cha mẹ phải tích cực hưởng ứng,
ủng hộ, tạo điều kiện thuận lợi để con cái mình tham gia.
Đức Vạn Hạnh Thiền sư dạy:
“Mình đã chọn một con đường đạo lý để đặt đời mình vào đấy thì phải nhớ mà
đào tạo đến lớp người khác để có người tiếp nối sự nghiệp đạo lý ấy. Vì
đạo pháp là trường lưu mà đời người hữu hạn. Nếu muốn có lớp người kế tiếp sự
nghiệp đạo lý, không ai dễ đào tạo hơn là con cái trong gia đình là những mầm
non, những hột giống tốt đã thọ lãnh những tư tưởng, những phúc huệ của phụ mẫu
ngay từ trong bào thai.”([32])
Khai minh Đại đạo Đinh Hợi
24-11-2007
HUỆ KHẢI
[2] Cơ quan Phổ thông Giáo lý, 18-01 Tân Hợi (13-02-1971).
[3] Minh Lý Thánh
hội, 08-5 Quý Sửu (08-6-1973).
[4] Thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, 15-10 Đinh Mùi (16-11-1967).
Kính thưa quý
huynh tỷ,
Trong bài viết này Huệ Khải có mạn phép trích dẫn một
số đoạn thánh giáo dạy riêng gia nội quý huynh tỷ. Đáng lẽ thì không được
trích. Tuy nhiên, trộm nghĩ không phải ai ai cũng có hồng phúc đón nhận các lời
dạy quý báu ấy, và xét thấy những trường hợp cụ thể (người thật việc thật)
trong đạo Cao Đài (như được trích dẫn nơi đây) mới đúng là tấm gương có tác
dụng giáo huấn rất hiệu quả để cho bổn đạo chúng ta cùng suy gẫm, học mà hành theo
đúng lời bảo ban của các Đấng. Xin quý huynh tỷ hoan hỷ lượng thứ việc Huệ Khải
trích dẫn. Âu cũng là công quả rất lớn mà gia nội quý huynh tỷ góp phần cho
Đạo.
Xin chân thành kỉnh tạ quý huynh tỷ.
[5] Thánh thất Nam
Thành, 15-10 Giáp Thìn (18-11-1964).
[6] Minh Lý Thánh
hội, 26-02 Ất Mão (07-4-1975).
[7] Thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, 10-5 Canh Tuất (13-6-1970).
[8] Minh Lý Thánh
hội, 08-12 Đinh Mùi (07-01-1968).
[9] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-10 Bính
Ngọ (26-11-1966).
[10] Báo Ân Từ, 02-02
Đinh Hợi (22-02-1947).
[11] Câu này mượn
trong Hiếu kinh 孝經: “Lập thân hành đạo, nêu danh hậu thế, để rạng
rỡ mẹ cha, đó là điều sau cùng của đạo hiếu.”
立身行道, 揚名於後世, 以顯父母, 孝之終也. Lập
thân hành đạo, dương danh ư hậu thế, dĩ hiển phụ mẫu, hiếu chi
chung dã.
[13] Cơ quan Phổ thông Giáo lý, 10-02 Nhâm Tý (24-3-1972).
[14] Cơ
quan Phổ thông Giáo lý, 15-12 Giáp Dần (26-01-1975).
[15] Thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, 01-4 Kỷ Dậu (16-5-1969).
[16] Thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, 23-12 Kỷ Dậu (30-01-1970).
[17] Cơ quan Phổ thông Giáo lý, 01-5
Đinh Tỵ (17-6-1977).
[18] Thanh Liên Đàn,
14-12 Giáp Thìn (16-01-1965).
[19] Thánh tịnh Ngọc
Minh Đài, 15-10 Mậu Thân (04-12-1968).
[20] Cơ quan Phổ thông Giáo lý, 14-02 Giáp Dần (07-3-1974).
[21] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài,
15-7 Mậu Thân (07-9-1968).
[22] Đại thừa chơn giáo (Sài Gòn 1950, tr. 202).
[24] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-01 Kỷ Dậu (03-3-1969).
[25] Xem bài Luật nhân quả
theo giáo lý Cao Đài, tr. 21.
[26] Xem thêm tự
thuật của tiền bối Huệ Lương, tr. 49.
[27] Minh Lý Thánh hội, 06-10 Kỷ Dậu (15-11-1969).
[29] Cơ quan Phổ thông Giáo lý, 18-01 Tân Hợi
(13-02-1971).
[30] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-01 Kỷ Dậu (02-3-1969).
[31] Thánh
ngôn hiệp tuyển, quyển I, 1964,
tr. 10.
[32] Minh Lý Thánh hội, 06-10 Kỷ Dậu (15-11-1969).