Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019

4/4. Lời Xưa Gởi Lại Sông Vàng / LÒNG CON TIN ĐẤNG CAO ĐÀI



Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà ngày xưa. Ảnh Đạt Truyền.

Lời Xưa Gởi Lại Sông Vàng
Mở đầu bài nói chuyện hôm nay,([1]) trong tinh thần ôn cố tri tân, chúng ta hãy nhớ lại vài nét lớn về lịch sử hình thành thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà. Qua đó, chúng ta sẽ hiểu vì sao trước kia, trong những lễ kỷ niệm như hôm nay, Đức Quan Thánh Đế Quân đã dành cho bổn đạo sở tại những lời dạy rất đặc biệt. Đồng thời, chúng ta còn có thể rút ra từ các lời dạy năm xưa của Đức Quan Thánh ít nhiều suy gẫm và ứng dụng trong cuộc sống đạo hiện tại.
1. Mấy nét lịch sử Ngọc Điện Huỳnh Hà
Khoảng giữa thập niên 1930 có ông Cai Lê và một nhóm tín đồ Cao Đài làm việc trên một tàu thủy Pháp để mưu sinh. Những vị này rất mộ đạo. Mỗi khi tàu cập bến Sài Gòn, các vị lên bờ, siêng năng tìm đến các nơi có cơ bút để hầu đàn. Các vị cũng từng mấy phen thử tập đồng tử nhưng đều không kết quả.
Thế rồi, Ơn Trên chuyển bộ phận Hiệp Thiên Đài của thánh tịnh Đại Thanh (Gò Vấp) đến nhà bà Võ Thị Hiển (tức bà Xã Hành) ở xã Bình Khánh để khai khiếu đồng tử. Nhờ đó nhóm tín đồ này mới thông công được với Thiêng Liêng. Từ ấy, nhà bà Hiển trở thành một nơi lập đàn, quy tụ những tín đồ đầu tiên của thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà sau này.
Khi dạy lập ban cai quản đầu tiên (với chánh hội trưởng là tiền bối Cai Lê), Ơn Trên còn ban cho một họa đồ và dạy bổn đạo địa phương lo tạo tác ngôi Ngọc Điện Huỳnh Hà. Tuy nhiên, điều kiện sinh kế của bổn đạo địa phương lúc bấy giờ rất khó khăn, nhiều người cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Thế nên, trước lịnh dạy lập thánh tịnh, lòng bổn đạo vui lo lẫn lộn. Vui, vì được ơn Trời tạo điều kiện lập công bồi đức để giải nghiệp mà tu tiến. Lo, vì sợ sức người và tài lực mỏng manh, không kham nổi trọng trách.
Nói đến đây, chúng ta cần hiểu vấn đề bằng chánh tín. Người thiếu đức tin có thể thắc mắc rằng giữa lúc hoàn cảnh khó khăn đến thế, Ơn Trên còn cho lập thánh tịnh làm gì.
Ý nghĩa việc lập chùa dựng thất
Chúng ta hiểu rằng Ơn Trên dạy lập thánh tịnh không phải để dành cho Ơn Trên thọ dụng. Ngoài ý nghĩa tạo điều kiện cho nhơn sanh lập công bồi đức để giải nghiệp mà tu tiến, khi Ơn Trên cho lập thất, dựng chùa tức là các Đấng xét thấy rằng tâm đạo người tu đã chín, đã đủ đức độ để làm người trông coi thánh đường.
Đọc thánh giáo Cao Đài, chúng ta biết khi xưa có một vị rất giàu có, muốn xuất tiền ra lập thánh thất, vậy mà Ơn Trên về đàn chỉ cười, khuyên rằng tạo ra chùa thì dễ, tạo ra người xứng đáng giữ được chùa mới khó.
Đức Quan Thánh Đế Quân giảng giải:
“Chí Tôn dạy lập chùa thất là một hữu hình trụ tướng để thể hiện quyền pháp của Trời. Đó là một phần nhỏ. Còn phần trọng đại là nơi quy tụ nhơn sanh để hướng dẫn mọi sinh hoạt đạo lý, phổ truyền giáo lý, thức tỉnh người đời. Nơi chùa thất là để chung cho nhơn sanh đến đó nghe đạo, học đạo và hành đạo...
“(...) Trong nếp sinh hoạt tại chùa thất gồm có hai phần: một phần tu tịnh để tịnh dưỡng, tu đơn, dùng điển lành hộ trợ cho sự bằng an, sung túc ở nơi đó; một phần khác nữa là ngoại giáo công truyền, gồm có giảng đạo, phước thiện, xã hội và hành chánh đạo để cho hệ thống của guồng máy được lưu thông điều hòa. Nếu không vì những nhu cầu ấy, Chí Tôn đã không dạy lập chùa thất.([2])
Qua lời dạy của Đức Quan Thánh, chúng ta hiểu Ơn Trên bảo lập chùa tạo thất chỉ vì nhắm vào lợi ích thiết thực của chính nhơn sanh mà thôi. Từ đây, chúng ta suy nghĩ xa thêm một chút: Nếu ngày nay vì một lý do nào đó, có một thánh thất hay thánh tịnh không thực hiện đúng nội dung những chức năng, nhiệm vụ như lời Đức Quan Thánh đã dạy như trên, có lẽ nơi ấy chỉ mới là cái xác nhà chứ chưa đúng nghĩa là thánh thể tại thế của Đức Chí Tôn.
Trở lại với câu chuyện buổi đầu xây dựng thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà. Như đã nói, bấy giờ đang lúc chiến tranh, kinh tế suy thoái, bổn đạo sống rất chật vật trong cảnh nghèo túng, tiền công quả cất chùa góp lại cũng chẳng thấm vào đâu. Thấy vậy, tiền bối cố vấn Bảy Rô đã phát tâm tự nguyện bán ngôi nhà ba gian để lấy tiền mua cây, và để tiết kiệm các phí tổn trung gian, đích thân tiền bối đi mua cây tận nguồn, rồi đóng bè thả về. Mọi việc nặng nhọc chỉ một mình tiền bối gánh vác. Hoàn cảnh này khiến chúng ta nhớ lời người xưa mà thánh ngôn thánh giáo Cao Đài cũng hay nhắc lại: Nhà nghèo mới biết con thảo, nước loạn mới biết tôi trung.
Không riêng gì thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà. Xưa kia, khi trả lại chùa Gò Kén cho Hòa Thượng Như Nhãn (năm 1927), các tiền bối khai đạo Cao Đài đã xây dựng ngôi Đền Thánh nguy nga ở khu rừng cấm tại làng Long Thành (Tây Ninh) cũng chỉ từ con số không to tướng. Như thế, chúng ta nghiệm ra: Nếu người đời lấy lửa thử vàng thì Ơn Trên cũng lấy gian khó, truân chuyên để đo lòng can trường thiết thạch của những người con áo trắng. Cách thời đại chúng ta hơn hai ngàn ba trăm năm, thầy Mạnh Tử (372–289 trước Công Nguyên) cũng từng nói lên chân lý ấy:
“Hễ Trời định phó thác trách nhiệm lớn lao cho người nào, trước hết phải làm cho người ấy khổ não tâm chí, lao nhọc gân cốt, đói khát cầu bơ cầu bất, nghèo nàn thiếu trước hụt sau, và làm rối loạn, điên đảo các việc làm của người ấy. Làm thế để mà phát động lương tâm của người, cho nhẫn kiên tánh tình của người, và gia tăng tài đức còn khiếm khuyết của người.” ([3])
Quả thật, dù lớn dù nhỏ, những thánh đường Cao Đài đã hình thành trong lịch sử đều vững vàng mọc lên, trên một cái nền kiên cố nhất. Nói kiên cố nhất bởi vì cái nền ấy được đắp bằng đức tin bất thối chuyển và bằng tâm vô quái ngại của tín đồ hàng hàng lớp lớp. Và thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà là một bằng chứng cho điều chúng ta vừa nói: Trên thì được Thiêng Liêng hộ trì vô vi; dưới thì có quyết tâm hy sinh của rất nhiều người; lại được các thánh tịnh của Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên yểm trợ vật chất, v.v... Cuối cùng thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà đã được khánh thành.
Thánh tịnh trụ được mười mấy năm thì bị giặc Pháp đốt rụi (1947). Bổn đạo phải quy tụ tại nhà riêng của tiền bối Nguyễn Văn Phát để hành đạo, coi đây như một ngôi Ngọc Điện nhỏ.
Năm 1953, Ơn Trên ban lịnh tái tạo thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, nhưng vì chiến tranh, mãi đến ba năm sau, chính xác là ngày 08-01 Bính Thân (Chủ Nhật 19-02-1956) thánh tịnh mới được khởi công tạo tác. Sau nửa năm, thánh tịnh lạc thành vào ngày 28-6 Bính Thân (thứ Tư 04-7-1956).
Ngôi thánh tịnh mà chúng ta đang có mặt hôm nay đã hình thành như thế. Nền đất mà giờ đây chúng ta đang đặt chân cũng chính là nền nhà riêng mà Chánh Hội Trưởng Huỳnh Văn Phuông đã thành tâm hiến dâng cho Đạo. Bốn năm sau (1960), Huỳnh tiền bối quy thiên, và đến giữa năm 1968 thì Ngài có dịp trở về thánh tịnh với quả vị thiêng liêng là Công Đức Chơn Tiên.
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây. Uống nước nhớ người đào giếng. Đó là tinh thần nhân bản của người Việt Nam từ nghìn xưa. Hôm nay ôn lại vắn tắt mấy nét lịch sử chánh yếu của thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, chúng ta hết sức khâm phục truyền thống hành đạo của bổn đạo sở tại.
Ngày nay thánh thất, thánh tịnh Cao Đài có rất nhiều và hầu như hiện diện khắp nơi trên quê hương ta, từ thành thị đến thôn quê, nhưng không phải thánh thất, thánh tịnh nào cũng đều có thể ghi chép được lược sử của mình, kết tập được những thánh giáo thánh ngôn liên quan đến họ đạo của mình. Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà làm được cả hai điều ấy. Nhờ thế mà kẻ hậu bối mới có cơ duyên biết được lịch sử của Sông Vàng Điện Ngọc. Thành quả này không chỉ quý báu riêng cho thánh tịnh mà còn góp phần rất tích cực cho việc ghi chép lịch sử của toàn đạo Cao Đài.
2. Xác nhận tâm đạo của bổn đạo Ngọc Điện Huỳnh Hà
Xác nhận ân phước Thầy ban cho tín đồ sở tại
Tìm hiểu lịch sử hình thành thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, chúng ta biết rằng ngôi thánh đường này đã được dựng lên từ tấm lòng và đức tin của những con người lam lũ, thậm chí có lúc thiếu cả miếng ăn và lại phải sống trong một cuộc chiến tranh khốc liệt.
Sử liệu của thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà cho biết hồi cất thánh tịnh lần thứ nhất, bổn đạo đã kiệt quệ ví như cua gãy càng. Mỗi lần nghe hàng rong đi qua rao khoai lang thì có người thèm đến chảy nước miếng! Vậy thì cái gì đã khiến cho lớp người xưa đó vượt qua hết mọi hoàn cảnh thử thách gay go để ngày nay chúng ta có được một trụ tướng vững vàng thế này làm nơi tu học cho lớp lớp hàng hàng những người tiếp nối? Đức Cao Triều Phát dạy:
“Mọi người sẽ vượt qua tất cả mọi hoàn cảnh nếu biết có Thượng Đế đang ngự trị ở lòng mình.” ([4])
Tương tự, bài Kinh Hộ Mạng của tín đồ Cao Đài có hai câu kết rất thấm thía:
Cam lòng với cảnh thuyền xê,
Có Thầy con trẻ ủ ê chi mà.
Bổn đạo thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà quả thực đã thắp sáng được ngọn đèn lòng để kiên gan dãi dầu với Thầy, với Đạo, bằng một đức tin sắt son, âm thầm vượt qua mọi thử thách. Những âm thầm kín đáo ấy đều được Ơn Trên chiếu soi, chứng giám. Cho nên trong lễ kỷ niệm Đức Quan Thánh vào năm Tân Sửu, Đức Hiệp Thiên Đại Đế đã giáng đàn tại thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà xác nhận rằng:
“Nơi đây mặc dù đã trải qua nhiều thăng trầm biến chuyển vì thế sự, nhưng tâm đạo của chư hiền đệ muội vẫn không phai mờ trước sự biến đổi, vẫn một niềm tin tưởng Thiêng Liêng và quyết dựng nên ngôi thánh tịnh để chiêm bái. Vì tâm đạo của chư hiền đệ muội nên Thầy trên luôn luôn ban phước cho cả chư hiền.” ([5])
Lễ kỷ niệm một năm trước đó, Đức Quan Thánh cũng dạy địa phương những lời tương tự:
“Chư hiền đã trải qua nhiều cảnh gian truân khổ não nơi chốn trược trần, nhưng luôn luôn một lòng nguyện vái tu hành, lập công bồi quả, chung hiệp đệ huynh, đồng bước trên đường Đại Đạo phục hưng, nên được ân hồng Chí Tôn ban bố chuyển đàn nơi đây là để giục thúc cõi lòng tô bồi công quả của chư hiền được tiến thêm lên.” ([6])
3. Khuyên cố gắng làm công quả, biết thương yêu nhau
Lời xác nhận của Đức Quan Thánh nhằm nung nấu đức tin và khuyến khích các đạo hữu hãy nhân cái đà tốt đẹp ấy mà tiếp tục tiến bước xa hơn. Thế nên, khi ghi điểm son cho thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà (năm 1960), như dè chừng tâm trí phàm phu dễ chủ quan rồi ngủ quên trên thành tích, Đức Quan Thánh từ bi dạy tiếp:
“Vậy hãy cố gắng trên đường vun quén đức công, cùng nhau bạn đạo gánh gồng, xây đắp cảnh phương viên thánh địa, là nơi cung kính Đức Trời Cha, hiệp sức nhau san sẻ chữ hòa, gây lấy chữ thương yêu cho trọn, đường quả công bòn mót thêm lên, để ngày cận đây được Thầy trên điểm hóa đạo lành. Lão nhắc nhở, mong chư hiền cố gắng.” ([7])
Đức Quan Thánh dạy rất cụ thể. Ngài khuyên người tu phải ráng lo làm công quả trong tình thương yêu hòa ái:
Cố gắng cùng nhau lập quả công,
Tình thương chia sớt dưới trên đồng.
Thương Thầy lo Đạo, an nhàn lạc,
Quyết chí sùng tu, hưởng phước hồng.([8])
Hai chữ công quả được Đức Quan Thánh nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
Trường công quả lập tiến nhanh,
Khuyên trong lưỡng phái tu hành bước mau.([9])
Ghi nhớ thực hành công quả hôm sớm không lơi lỏng, theo Đức Quan Thánh cũng là lập đức cho dày để đến khi cổi bỏ xác phàm linh hồn được siêu thoát:
Biết đạo đức hưởng mùi lạc thú,
Phần quả công ký chú mai chiều.
Đường tu lập đức làm phiêu,
Hầu ngày thoát tục được siêu linh hồn.([10])
Làm công quả cũng là thực hiện một phần phương pháp tu Tam Công của Cao Đài trong kỳ đại ân xá. Nhưng để công quả được hiệu quả lớn lao, theo Đức Quan Thánh, người tu không nên chỉ làm đơn phương hay lẻ loi. Đã có tập thể là họ đạo, là thánh thất, thánh tịnh, thì phải biết kết đoàn để một lòng chung lo công quả. Đức Quan Thánh dạy:
Trời trong mây thoảng gió đưa,
Lỡ làng kiếp sống lọc lừa phải lo.
Lo cho vẹn phận trò tu học,
Sớm chiều trưa chia sớt quả công,
Dưới trên liên kết một lòng,
Xây nền đạo đức, vun trồng quả nhân.([11])
Trong thực tế, khi hợp quần với nhau để làm việc chung, tâm phàm phu thường khiến chúng ta dễ có lòng phân biệt nhĩ ngã, anh tôi. Những cái tiểu ngã vị kỷ của người đạo hữu cùng sinh hoạt chung trong một cộng đồng thường hay va chạm nhau để rồi dễ sinh ra cảnh trống đánh xuôi mà kèn thổi ngược, làm cản trở bước tiến của Đạo. Để hướng người tu vào nẻo hợp quần, phục vụ cho đại cuộc thiên cơ, Đức Quan Thánh khuyên chúng ta phải biết dung hòa những cái ta sai biệt do bởi căn trí khác nhau; người nhanh phải biết dìu người chậm, người khôn khéo phải biết nâng đỡ người vụng về. Đức Quan Thánh dạy:
Thương nhau chín bỏ để làm mười,
Nương níu dìu nhau để độ đời.
Tay có ngón dài còn ngón vắn,
Kéo ra bằng mí lóng e rơi.([12])
Khi biết kềm lòng để kiểm soát cái ta của mình mà thông cảm với cái ta của người khác, đó là thực hành hạnh khắc kỷ. Mà khắc kỷ cũng là một phương diện của công trình trên đường tu đức. Đức Quan Thánh dạy:
“Chư hiền đệ, hiền muội! Đã sanh vào cõi vô thường, mỗi điểm chơn hồn mang một nhục thể vào đời đều có một sứ mạng để tự tu tự tiến và giúp cho bộ máy thiên luân trong cuộc điều hành vũ trụ. Những điểm chơn hồn đó tuy căn trí có khác nhau từ hàng đại giác nguyên căn cho đến hàng phàm phu tục lụy, nhưng mỗi mỗi đều có sứ mạng, nhiệm vụ của nó, giống như từng con ốc, bánh xe, cái chốt trong bộ máy toàn thể. Đừng ai tối tăm nghĩ rằng sự sống đơn phương riêng rẽ của mình không liên hệ gì với sự sống đại thể của muôn loài vạn vật rồi tự tìm lối rẽ thụ hưởng riêng tư trong phạm vi nhỏ hẹp, vị kỷ vị thân.” ([13])
Cái lý ấy nói ra thì dễ. Ai cũng có thể nói được, lập đi lập lại được, nhưng thực hành thì không dễ. Phương thuốc để trị bệnh này, theo lời Đức Quan Thánh dạy, chính là tình thương yêu nhau để đỡ nâng nhau trong cùng một tập thể:
Phấn tâm lo danh mà Đại Đạo,
Đồng cùng nhau hoài bão lý chơn,
Bỏ đi những nỗi giận hờn,
Thương nhau là gốc keo sơn chặt gìn.
Đường đạo đức đệ huynh tiến bước,
Chớ ngại ngùng hầu lướt chông gai.
Chung tâm phổ hóa ngày ngày,
Đắc thành phẩm vị một mai nhẹ nhàng.([14])
Chúng ta bình tâm mà xét thì thấy trong một tập thể đạo, cùng là con cái của Đức Cao Đài ai ai cũng thương Thầy hết. Nhưng lạ một điều là chưa chắc hai kẻ cùng thương một ông Thầy mà lại có thể dễ dàng thương mến nhau thật sự.
Nhiều khi một đạo hữu của mình có lầm lỗi gì đó, mình dễ dàng bất bình chỉ trích, công kích người đó. Trên danh nghĩa thì mình đang tích cực bảo vệ quyền pháp đạo, danh nghĩa đạo, nhưng nếu xét thật kỹ lòng mình, dường như phần đông ít có ai dám đảm bảo rằng tận nơi sâu kín của lòng phàm chúng ta hoàn toàn không có chút xíu nào sự xúi bẩy của bản ngã tư kỷ? Cho nên thánh giáo dạy chúng ta dùng tình thương để cảm hóa, sửa lỗi cho nhau, nghe qua thì có vẻ đơn giản mà thực hành vào cuộc sống thì ôi thôi rất khó!
Chia sẻ với chúng ta nỗi khó khăn ấy, Đức Quan Thánh dạy chúng ta phải biết dùng công phu để rèn tâm mình, tập luyện để hoán cải cái tôi, cái ta vị ngã phàm phu dần dần trở nên vô ngã, thánh thiện.
Về đại dụng của công phu, ngoài “yếu tố căn bản để giúp cho hành giả một phương pháp dưỡng sinh tuyệt diệu mà rẻ tiền”, Đức Quan Thánh dạy rằng người tu có thể “nhờ pháp môn ấy để làm phương tiện chuyển hóa tâm hồn được thuần thành khả ái do không chấp không câu, không nê không lự. Hễ lòng người không chấp không câu, không nê không lự sẽ được phóng khoáng thuần thành, thơ thới vui tươi, khoan dung từ ái, ôn hòa phúc hậu. Đó là diện mạo của thánh nhơn tại tiền.” ([15])
4. Dạy hàng hướng đạo
Đức Quan Thánh dạy chúng ta rằng tình thương có tác dụng cố kết những huynh tỷ đệ muội trong cùng một tập thể đạo. Hơn thế nữa, tình thương còn là lực hấp dẫn để thu phục nhơn tâm, bởi vì đất lành thì chim đậu. Cho nên, trước tấm lòng ưu tư của bậc hướng đạo đang có trách nhiệm lèo lái một cộng đồng Cao Đài, nhỏ là thánh thất, thánh tịnh, lớn là hội thánh, tòa thánh, Đức Quan Thánh dạy:
“Bần Đạo muốn lưu ý toàn thể rằng: Mình muốn người khác thương mình, trước phải tự mình thương người đã. Đừng ngồi một chỗ kêu gọi thiên hạ đến với mình, mà phải bản thân mình đến với thiên hạ trước đã. Đừng bảo hoặc yêu cầu ai thương mình, nếu trong khi đó mình thiếu tác phong, cử chỉ, hành động đối với họ. Đừng sợ người ta không thương mình, chỉ e tại mình thiếu tác phong, nhân cách, phẩm hạnh, đạo đức để được xứng đáng cho người ta thương mà thôi. Đừng sợ không ai hợp tác với mình, chỉ ngại mình không có nhiệt tình muốn hợp tác với người ta.” ([16])
Thương thương ghét ghét là chuyện hàng ngày của thế gian. Nhưng thương và ghét lại ảnh hưởng đến mọi chuyện thành công và thất bại của con người. Khi dạy bậc hướng đạo phải biết thương người khác, Đức Quan Thánh cũng khuyên các vị ngược lại phải biết vượt lên những đố kỵ, ghét ganh mà người đời hay dành cho các trang hướng đạo:
“Ở thế gian, dầu ai mang danh là đạo đức cao niên cũng vẫn còn trong vòng thế gian. Nhân tình thế thái như vầy: Nếu chư hiền đệ, hiền muội nghèo đói, dốt nát, không ai để ý ghen tỵ, xiểm gièm. Một khi chư hiền đệ muội khá giả, học rộng, có được địa vị trong xã hội hoặc trong tôn giáo, thì tức khắc có không biết bao nhiêu sự đố kỵ, xiểm gièm chen vào giành giựt, phá tán. Đã là hàng hướng đạo, phải xem thường việc ấy. Cố gắng lấy đức khiêm tốn, lòng khoan dung, chí nhẫn nại, ôn hòa, tùy thời để hành phận sự đến nơi đến chốn.” ([17])
Xác nhận tình đời như thế, Đức Quan Thánh khuyên các bậc hướng đạo hãy xem thế thái nhân tình ấy như phong ba, bão tố nhất thời, bình tâm đón nhận vì chắc chắn sẽ có lúc sóng lặng gió êm:
Hướng đạo ngại chi lúc bại thành,
Thuyền ra bể cả gặp chòng chành.
Sóng to gió lớn qua giây lát,
Mặt biển phẳng lờ trở lại nhanh.([18])
5. Khiêm tốn, phục thiện, cầu tiến để phát huy nền Đạo
Đạo Cao Đài là một tôn giáo trẻ so với bề dày của các tôn giáo đã ra đời từ Nhất Kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ. Là một tôn giáo trẻ cho nên đạo Cao Đài có sinh lực riêng của mình, có cái độc đáo và sứ mạng riêng của mình. Nhưng ngược lại, một tôn giáo trẻ cũng không có được những thuận lợi của các tôn giáo đã có bề dày vài ngàn năm lịch sử.
Hiểu như vậy, để phát triển nền Đạo, hoằng dương chánh pháp Tam Kỳ Phổ Độ, mỗi một cộng đồng Cao Đài bắt buộc phải có ý thức và không được tự mãn. Trong sự học đạo và hành đạo, mỗi cá nhân và mỗi tập thể cần biết nhìn ra, quan sát các tôn giáo đã có truyền thống lâu đời, nghiên cứu những kỷ cương, phép tắc truyền giáo độ nhân của tôn giáo bạn để rút kinh nghiệm, và phấn đấu ít ra thì cũng bằng được tôn giáo bạn chứ không thể để thua kém bạn. Đức Quan Thánh dạy:
Đạo cao cậy kẻ đức tài,
Lý cao nhờ kẻ miệt mài nghĩ suy.
Nhìn giáo bạn mà bì Đại Đạo,
Xem chúng nhân mà tạo tín đồ.([19])
Việc này bắt buộc phải dốc tâm dốc sức trọn cả đời người. Ngày xưa môn đệ Đức Khổng Tử hỏi bao giờ Thầy mới được nghỉ ngơi? Phải chăng là khi nào thân xác nằm yên trong lòng đất? Đức Khổng Tử gật đầu nói phải. Ngày nay, Đức Quan Thánh cũng dạy chúng ta y như thế:
Bao giờ bỏ xác xuống mồ,
Cũng tròn nghĩa vụ đạo đồ Đài Cao.([20])
Trở lại với lời dạy Nhìn giáo bạn mà bì Đại Đạo, Xem chúng nhân mà tạo tín đồ, chúng ta biết rằng công việc này không phải dễ dàng thực hiện. Người không có tinh thần cầu tiến, người tự cao tự đại, người đặt quyền lợi cá nhân cao hơn danh thể Đạo chắc chắn không thể làm được điều Đức Quan Thánh dạy bảo. Muốn làm được, phải có đức độ. Trong nhiều khía cạnh của đức độ, chắc chắn không thể thiếu đức khiêm tốn và phục thiện. Tại sao vậy?
Năm 1969, Đức Quan Thánh dạy rằng người hướng đạo cũng phải là những tay thợ lành nghề:
“... mỗi phần tử cá nhân của người tín hữu cũng như mỗi tổ chức hành đạo trong các chi phái đạo Cao Đài là một hột cát rất tốt, những hột xi măng rất tốt. Nhưng đến ngày nay chưa kết thành một bã hồ tốt đẹp đúng mức cho việc xây cất ngôi nhà Đại Đạo duy nhứt là bởi chưa có một bàn tay người thợ lành nghề biết chế nước dung hòa đúng phân độ tỷ lệ giữa các vật liệu ấy. Nghĩ cũng thương thay!” ([21])
Để người hướng đạo có thể trở nên tay thợ lành nghề, Đức Quan Thánh bảo chúng ta hãy học theo gương của những người thợ điêu luyện lành nghề ngoài đời:
“Chư hiền đệ muội thử nghĩ mà xem: Mỗi một người thợ, bất cứ ở ngành nào, không phải họ thành công từ trong bụng mẹ, hoặc ngay khi bước chân vào đời. Họ thành công nhờ đức khiêm nhượng, biết phục thiện để học hỏi những người bạn thợ khác. Họ thành công trong việc làm, họ thành công trong sự dám can đảm nhìn nhận và biết sửa chữa để cải tiến sau lần thất bại. Họ thành công trong sự ham học hỏi, biết hy sinh, dẹp tự ái, nhốt tự cao, không chủ quan.” ([22])
Đức Quan Thánh dạy Nhìn giáo bạn mà bì Đại Đạo, Xem chúng nhân mà tạo tín đồ, đó là nhìn ra xa, ra ngoài cộng đồng Cao Đài. Thế thì chúng ta đoán ra rằng Ngài cũng mặc nhiên khuyên ngay trong nội bộ Cao Đài, các chi phái, các địa phương tuy có lúc có nơi chưa phải hoàn toàn là tay thợ lành nghề, nhưng cũng nên tìm cách học hỏi lẫn nhau để cùng giúp nhau tiến bộ. Thực vậy, Ngài dạy:
“Biết rằng những người thợ đồng nghiệp khác cũng chưa lành nghề, nhưng nhờ sự hỗ tương trao đổi kinh nghiệm giữa sự thành công và thất bại để bổ sung cho nhau, đương nhiên sẽ lần hồi hết thất bại, đi đến sự thành công hoàn toàn.” ([23])
Thử hỏi: Cái chướng ngại gì đã ngăn trở chúng ta tuy cùng khăn đen áo trắng như nhau mà chưa thực sự hòa hợp tương trợ nhau? chưa thân thiết và tin yêu nhau?
Năm 1969 Đức Quan Thánh đã chỉ rồi, đó là tự ái, tự cao. Muốn trị nó, phải lấy đức khiêm tốn và phục thiện. Hai năm sau lần dạy ấy, Đức Quan Thánh nhắc nhở thêm:
“Lão muốn đề cập đến đức khiêm tốn và tinh thần phục thiện.
Chư hiền đệ muội! Trong giới tu hành, đức tính khiêm tốn và tinh thần phục thiện là hai trong những đức tính cần thiết để giúp đỡ người tu thân lập hạnh, hành đạo độ đời, đi đến nơi đến chốn.
“(...) Đức tính khiêm tốn, tinh thần phục thiện là món bửu bối quý giá vô cùng để giúp người tu thân hành đạo có được những cử chỉ khả ái, tác phong dễ thương, tư cách đức độ, việc làm nhân từ khả dĩ gây được bầu không khí hiền hòa với những người đối diện.” ([24])
6. Chăm lo thế hệ tương lai
Ưu tư đến thanh niên, là tương lai của Đạo, mà cũng là thế hệ tương lai của đất nước, năm 1964 nhân lễ kỷ niệm Ngài tại thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, Đức Quan Thánh dạy:
“Giờ đây Bần Đạo cũng nhắc đại cương vai trò quan trọng của người thanh niên trong xã hội. Để kiến tạo lại những gì đổ vỡ, hàn gắn lại những vết đau thương của muôn vạn sanh linh, hỡi các người thanh niên trong thế hệ này, có nhận thức được trách vụ của mình hay không? Hay rồi lại phải làm kiếp đời thiêu thân, lao đầu vào những cuộc trà đình tửu quán, phế cả tài đức một kiếp người, xấu hổ cho truyền thống Lạc Hồng!
“Đau đớn thay! Luân lý Khổng Mạnh chẳng còn hiệu lực trước làn sóng ồ ạt vật chất văn minh bên ngoài xâm nhập, làm cho trí tưởng của lớp tuổi thanh niên bị đầu độc bởi muôn điều hấp dẫn phù hoa. Nếu đã ý thức được bổn phận, vai tuồng trước lúc luân lý đồi bại ngửa nghiêng, thì các thanh niên còn gì nữa mà không tìm lý tưởng duy nhứt để tôn thờ. Bần Đạo muốn nói đến con đường đạo đức trường cửu.”.([25])
Tuy đã qua gần bốn mươi năm, đến nay lời dạy vẫn còn nguyên giá trị thời sự nóng bỏng, thậm chí còn mang tính cách cấp bách hơn nhiều, rất nhiều. Thật vậy, theo dõi báo chí mấy năm nay, chúng ta biết hiện có một bộ phận không ít thanh niên đang hủy hoại tuổi xuân trong những thú vui sa đọa. Đầu tháng 8 này, các giới chức chánh quyền đã phải cảnh báo rằng các tội phạm hình sự đang “trẻ hóa”, nghĩa là hiện có những kẻ cướp của, giết người mà thủ phạm chỉ mới mười lăm, mười sáu tuổi!
Thực hành lời dạy của Đức Quan Thánh, khi mỗi thánh thất, thánh tịnh hết sức lưu ý chăm lo đời sống tinh thần lành mạnh, đạo đức của thanh thiếu niên trong họ đạo mình, khu vực dân cư của mình, ấy là đang góp phần lành mạnh hóa xã hội, thiết thực góp phần giữ gìn cả một thế hệ tươi sáng cho tương lai đất nước, dân tộc.
*
Quả thực Đức Hiệp Thiên Đại Đế dạy cho chúng ta những điều hết sức gần gũi và thiết thực, đơn giản mà sâu sắc. Từ chỗ bày vẽ cho từng tín đồ phương cách hoán cải tâm phàm cho nên người thánh thiện, Ngài còn chỉ dẫn đường đi nước bước để các bậc hướng đạo hoàn thành được sứ mạng thế Thiên hành hóa, giáo dân vi thiện của mình, và không quên dặn dò người đạo phải biết chăm lo giáo dục lý tưởng đạo đức cho thế hệ tương lai của Đạo, cũng là tương lai của nước non, dân tộc. Nhân dịp lễ kỷ niệm Ngài tại thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà năm 1961, Đức Quan Thánh ân cần khuyến nhủ:
“Bần Đạo ước mong mỗi hiền đệ muội nên luôn luôn trọn vẹn bổn phận tu hành hầu vượt qua. Bao nhiêu năm trường Thiêng Liêng đã chỉ dạy chư hiền đầy đủ. Giờ đây chư hiền nam cũng như nữ cần phải nhặt bước công tu để hưởng phúc Trời ban bố. (...) Bần Đạo mong cõi lòng của chư hiền đệ muội sẽ không bao giờ quên lãng những lời Thiêng Liêng giáo hóa.” ([26])
Có thể chúng ta chưa học đầy đủ hết lời dạy của Đức Quan Thánh từ xưa tới nay. Nhưng chắc chắn một điều rằng, nếu chúng ta học và hiểu được đến đâu, mà cứ thực tâm thực lòng thi hành, áp dụng đến đó, thì đường tu của mỗi tín đồ sẽ tinh tiến và đạo nghiệp của mỗi họ đạo, mỗi hội thánh sẽ thông suốt, phát huy rực rỡ. Chính Đức Quan Thánh đã cam đoan với chúng ta như vậy:
Hiểu Đạo rồi kiên gan học lấy,
Quyết tâm hành sẽ thấy huyền linh.
Hôm nay lời phán tận tình,
Mong trong lưỡng phái hy sinh lo tròn.([27])
Xin nguyện cầu cho mọi người và mọi cộng đồng Cao Đài đều chứng nghiệm được huyền linh nhiệm mầu ấy trong đời tu hành, lập đức, thi công của mình.
Nam mô Tam Trấn Oai Nghiêm Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
Phú Nhuận, 12-8-2001
Huệ Khải


([1]) Bài nói chuyện tại thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 9.30 giờ sáng 24-6 Tân Tỵ (thứ Hai 13-8-2001).
([2]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 01-02 Tân Hợi (25-02-1971).
([3]) Mạnh Tử: Cáo Tử, chương cú hạ, 15.
([4]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-7 Giáp Dần (01-9-1974).
([5]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Tân Sửu (05-8-1961).
([6]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Canh Tý (17-7-1960).
([7]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Canh Tý (17-7-1960).
([8]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Canh Tý (17-7-1960).
([9]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Canh Tý (17-7-1960).
([10]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Canh Tý (17-7-1960).
([11]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Tân Sửu (05-8-1961).
([12]) Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-4 Canh Tuất (19-5-1970).
([13]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-12 Giáp Dần (26-01-1975).
([14]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Giáp Thìn (01-8-1964).
([15]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-12 Giáp Dần (26-01-1975).
([16]) Thánh thất Nam Thành, 15-02 Kỷ Dậu (01-4-1969).
([17]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 01-02 Tân Hợi (25-02-1971).
([18]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 01-02 Tân Hợi (25-02-1971).
([19]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Giáp Thìn (01-8-1964).
([20]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Giáp Thìn (01-8-1964).
([21]) Thánh thất Nam Thành, 15-02 Kỷ Dậu (01-4-1969).
([22]) Thánh thất Nam Thành, 15-02 Kỷ Dậu (01-4-1969).
([23]) Thánh thất Nam Thành, 15-02 Kỷ Dậu (01-4-1969).
([24]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 01-02 Tân Hợi (25-02-1971).
([25]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Giáp Thìn (01-8-1964).
([26]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Tân Sửu (05-8-1961).
([27]) Thánh tịnh Ngọc Điện Huỳnh Hà, 24-6 Canh Tý (17-7-1960).