Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

3 ANH CHO EM MÙA XUÂN (MỎNG MẢNH TƠ TRỜI)


1. ANH CHO EM MÙA XUÂN
Gởi Thanh Mai
Những ngày cận tết, khu phố thường rộn rã những khúc nhạc vui. Năm mới chưa sang, nhưng nét nhạc xuân tươi tắn dường như đem ý xuân tới sớm trong lòng người đô thị. Chị thường bồi hồi mỗi khi nhà hàng xóm cho nghe bài hát cũ, một kỷ niệm thuở thanh xuân: Anh Cho Em Mùa Xuân…


Hồi ấy chị sắp tốt nghiệp trường sư phạm. Anh đã đi dạy được mấy năm. Hồi ấy thành phố còn thưa người, hàng tháng còn ăn theo chế độ tem phiếu. Tết năm ấy, anh cùng chị sóng đôi đạp xe loanh quanh thế nào rồi tình cờ lạc vào một nơi nửa quê nửa chợ. Anh thích thú chỉ cho chị thấy một vạt lúa xanh non bên đường. Dựa xe đạp vào một thân dừa, anh rủ chị mon men bước xuống bờ ruộng.
Buổi chiều yên ả. Gió thổi rì rào xua vạt lúa nhấp nhô từng đợt như những lượn sóng con con màu lục. Chị thấy lòng mình bỗng thênh thang. Thế rồi anh khe khẽ hát. Giọng anh không mấy hay, hát chẳng đúng nhịp, nhưng lời ca đẹp quá, và khung cảnh quanh chị lúc ấy cũng hợp với bài hát.
Đất mẹ gầy có lúa / Đồng ta xanh mấy mùa / Ngoài đê diều căng gió / Thoảng câu hò đôi lứa / Trong xóm vang chuông chùa / Trăng sáng soi liếp dừa / Con sông dài mấy nhánh / Cát trắng bờ quê xưa
Lần đầu tiên chị biết bài hát trữ tình của Nguyễn Hiền, phổ thơ Kim Tuấn.
Nhiều năm sau, một buổi sáng chị và anh ghé phòng tranh nhỏ trên đường Hồ Tùng Mậu ở trung tâm thành phố. Hôm ấy bạn anh, ông họa sĩ gốc Huế, khai mạc triển lãm. Thế là tình cờ chị biết mặt tác giả bài thơ Anh Cho Em Mùa Xuân.
Đón lấy tấm danh thiếp in tên Vĩnh Khuê, hiệu trưởng trường dạy tiếng Anh và dạy nghề Thăng Long, rồi nhìn người đàn ông ngăm ngăm ở độ tuổi lục tuần, không hề mang cái dáng dấp thư sinh mảnh khảnh như chị từng hình dung, chị không khỏi buồn cười cho óc tưởng tượng của mình.
Chị nói chị rất thích bài Anh Cho Em Mùa Xuân. Nhà thơ cười cười hỏi chị thích bài thơ hay bài hát. Rồi không để chị trả lời, ông nói tiếp rằng ông viết “Đất mẹ gầy có lúa” với niềm mơ ước quê mẹ Hà Tĩnh sỏi đá cằn cỗi được no cơm, thế nhưng xưa nay bà con cứ hát sai bét là “Đất mẹ đầy cỏ lúa”.
Tháng 9 năm 2003 nhà thơ đột ngột ra đi. Đọc báo, chị sửng sốt. Bỗng nhớ lại hôm tao ngộ ở phòng tranh, ông bảo ông thích cô Hà Thanh hát bài Anh Cho Em Mùa Xuân hơn ai hết. Chị tủm tỉm cười nói rằng có một ca sĩ nghiệp dư hát bài ấy còn hay hơn Hà Thanh nhiều. Và chị đưa mắt nhìn anh, ngầm trêu.
02-02-2010

2. BÀI HỌC THUỘC LÒNG
Công việc viết lách thường buộc anh phải tìm tranh ảnh minh họa. Vì thế, tình cờ bắt gặp hình ảnh trong sách báo nào đó và nghĩ xa rằng có thể dùng cho các bài viết của mình, anh cắt giữ lại.
Thiếu tính ngăn nắp, số ảnh tài liệu cứ bỏ đại vào một phong bì hay cái hộp. Đến chừng cần minh họa cho một đề tài, trong đầu mang máng nhớ là ở nhà có “đồ nghề”, mang máng nhớ hình như mấy năm trước mình bỏ chỗ nào đó. Bèn lục tung lên.
Thường đi tìm ảnh này thì lòi ra ảnh khác. Tấm ảnh không hẹn mà tái ngộ ấy nếu có điều chi đặc biệt, sẽ bắt anh ngắm nghía, tự hỏi sao mình lại có nó nhỉ? Hoặc tự trách móc sau khi xoay ngược xoay xuôi mà không thấy ghi chú nguồn gốc. Mất thời gian bới lục đã đành, còn mất thêm thời gian hồi tưởng.
Hôm nay, bới trong mớ ảnh vô trật tự của mình, anh tìm thấy tấm ảnh in trong cuốn Types de Pays của P. Gastaldy danh tiếng, xuất bản khoảng cuối thập niên 1930. Một chú bé bán báo. Anh mau chóng nhớ ra lý do vì sao đã giữ lại nó. Bởi chú bé bán báo trong tấm ảnh đã dắt anh quay về với một chú bé khác học ở trường làng. Khiến anh bồi hồi.


Hồi xửa hồi xưa, học trò tiểu học có môn quốc văn. Sách giáo khoa hay chọn các bài thơ giản dị làm “Bài học thuộc lòng”. Nhiều bài sớm quên tuốt, nhưng lạ thay, có bài như một nỗi ám ảnh, khắc sâu vào ký ức, nằm im đó nhiều năm. Hễ có dịp, bèn nhảy ra. Đúng là học thuộc lòng.
Tôi chỉ là một trẻ con bán báo,
Khắp phố phường chân sáo nhảy tung tăng,
Cất tiếng rao lanh lảnh vang đường,
Tôi đem những món văn chương chào khách.
Này tạp chí, này tân văn, tôi cắp nách.
Đón mời chư mặc khách, tao nhân,
Trong xóm tân văn, tôi không phải không cần,
Ít chữ nghĩa, tôi chỉ giữ chân bán báo,
Phận nhỏ mọn có chi mà vênh váo,
Nhưng bán văn chương, ai dám bảo nghề hèn!
Mãi rất lâu về sau này chú nhỏ năm xưa mới biết rõ tác giả là Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu (1900-1976), một nhà thơ trào phúng từ thời Tự Lực Văn Đoàn. Tới bây giờ vẫn chẳng hiểu vì sao có thể nhớ bài học thuộc lòng ấy dai đến thế. Vẫn còn mường tượng tranh vẽ kèm theo bài học, một chú bé đang co chân chạy, tay giơ cao một tờ “nhựt trình”, miệng hé ra như đang cất tiếng rao. Và nép ở góc tranh là ký hiệu CL. DAU nho nhỏ. Bọn trẻ con mặc quần xà lỏn đi chân đất nhà quê hay lấy bút chì màu tô thêm vào tranh vẽ, hoặc “can” lại để tập vẽ các hình trong sách quốc văn. Đâu có đứa nào thèm biết rằng đó là Cliché Dầu làm bản kẽm danh tiếng một thời ở đất Sài Gòn.
15-10-2008

3. BĂN KHOĂN
Sáng Thứ Hai anh có giờ dạy. Sẽ giảng kỹ một bài ngữ pháp quan trọng để củng cố căn bản cho phần lớn sinh viên trong lớp. Vì bài hôm nay tiếp nối bài cũ với nhiều kỹ năng được nâng cao và phức tạp hơn, nên tuần trước anh đã căn dặn hãy cố làm hết bài tập để nắm chắc kiến thức cũ thì mới dễ lãnh hội bài mới. Có cả ngày Chủ Nhật, chắc hẳn sinh viên đủ thời gian thực hiện điều anh mong muốn.
Chào cả lớp, anh tươi cười vui vẻ để khởi đầu một buổi sáng tốt lành. Thế rồi chọn hú họa một cái tên trong bản danh sách dài hơn năm mươi nam nữ, anh gọi một sinh viên lên bảng.
Loay hoay với cục phấn chẳng đầy một phút, chàng tuổi trẻ liền bước tới bàn anh, nói rằng chưa làm một bài nào cả. Giọng tỉnh khô. Anh lặng thinh nhìn kẻ vừa cả gan phá hủy buổi sáng đầu tuần của anh, và bất chợt cảm thấy dường như bị xúc phạm. Tại sao đi học mà không làm bài? Tại sao anh đã dặn dò từ tuần trước mà không chịu nghe? Tại sao và tại sao?


Yêu cầu kẻ làm biếng ra khỏi lớp xong, anh cảm thấy có điều gì không ổn. Vô công rỗi nghề, biết đâu hắn sẽ tấp vào chỗ nào đó và nếu rủi ro xảy ra việc gì đáng tiếc. Xã hội bây giờ đâu thiếu những cạm bẫy cám dỗ tuổi trẻ.
Lòng băn khoăn, anh vừa tự trách mình thiếu nhẫn nại vừa thầm trách gã thanh niên kia vô tình. Lúc hắn quảy ba lô, rời khỏi những dãy bàn cuối lớp và rảo bước lên phía trên, anh đã dõi nhìn theo, định bụng nếu hắn chào thầy một tiếng thì anh bảo hắn quay lại ngồi học. Thế nhưng hắn thản nhiên đi thẳng ra cửa, chẳng thèm nhìn anh nửa con mắt thì còn mong chi có một lời chào cho phải phép.
06-4-2006

4. BUỔI CHIỀU LƯU TRỮ
Mắt bắt đầu mỏi. Những con chữ nhỏ càng thêm lờ mờ trên nền giấy cũ kỹ ngả vàng. Mấy bắp thịt lưng cũng nài xin được nghỉ ngơi một chút. Gỡ cặp kính ra, toan giụi mắt, nhưng anh kịp dừng lại. Những hồ sơ lưu trữ đã qua ba phần tư thế kỷ, già nua hơn cả tuổi đời anh ba thập niên; ngoài bụi thời gian, còn biết bao lần bảo quản, chống mối mọt bằng hóa chất. Gấp lại xấp hồ sơ, tiện tay cầm khối mi-ca chặn giấy dằn lên, anh khẽ dịch ghế, bước nhẹ ra ngoài bao lơn trống trải.


Chớp chớp mắt, anh ngó mông ra khoảng không trước mặt. Nắng chiều nhạt trên mấy tán lá xanh xòe rộng. Con đường bên dưới như mới vừa bớt đi náo nhiệt. Vây quanh là một cảm giác quen thuộc mỗi khi anh ghé bảo tàng, hay bước vào lưu trữ. Cái gì đó tĩnh lặng và lắng đọng như đến mức thâm nghiêm. Có lần thử phân tích cảm giác bất chợt ấy, anh tự hỏi, phải chăng vì ở những nơi chốn thế này luôn bàng bạc, tiềm tàng những mảnh rời lịch sử.
Lý giải ấy đến với anh một cách chậm chạp, qua những lần mở ra các tập hồ sơ thời Thống Đốc Nam Kỳ xếp trong fond GouCoch, và cầm trên tay những di tích của lớp lớp người xưa: hoặc là những bút phê của nhà cầm quyền bằng viết chì xanh, đỏ bên lề công văn, báo cáo; hoặc là nét mực tím viết nắn nót với ngòi lá tre trên lá đơn; hoặc chỉ là một chữ ký ngoằn ngoèo trên tờ pơ-luya đánh máy mà giấy mỏng tanh và đã muốn giòn như bánh tráng...
Có những tuổi tên trước kia chỉ biết qua sách vở, đến lúc cầm trên tay, tận mắt chứng kiến lời văn, thủ bút của họ, anh không khỏi thấy lòng nao nao xúc động. Một cách kỳ lạ, có những khoảnh khắc anh không khỏi mường tượng rằng dường như anh đang chạm ngón tay vào thiên cổ, và đang tình cờ ghé mắt vào công việc của những con người lịch sử một thời...
07-3-2001

5. CÁI TÀU CAU
Anh lướt nhìn và lật nhanh qua các trang của tờ báo ngày. Việc ấy đã thành thói quen mỗi sáng để, theo sở thích, anh chọn riêng cho mình một vài điều cần quan tâm giữa bộn bề thông tin của đời thường muôn vẻ.
Lúc định xếp lại tờ báo, gạt qua một bên, anh nhác thấy tấm ảnh nhỏ, đen trắng, khiêm nhường nép ở một cột báo. Nhấc kính, gí mắt nhìn gần cho rõ hơn, anh nhận ra một chú bé đang túm đầu tàu cau, kéo em khác ngồi bệt trên mo cau, hai bàn tay nhỏ bám chặt vào tàu lá. Cả hai đều đội nón. Nhìn bóng lá in trên nền đất, anh nghĩ bấy giờ trời đang trưa...


Anh không thấy bụi đất bay lên trong ảnh. Nhưng sao có đám bụi nào chợt mù lên trong ký ức cùng với tiếng xoèn xoẹt của chiếc mo cau kéo lê xềnh xệch trên mặt lộ gồ ghề của đường quê thơ ấu, hòa với tiếng cười nắc nẻ hồn nhiên, tiếng lũ trẻ nhau nhau giành đến lượt...
Khi anh tỉ mỉ cắt lại tấm ảnh, rồi đính lên một góc bàn làm việc, cạnh màn hình computer, con anh tò mò sán lại gần, nhìn chăm chú. Anh định nói gì đó, như giải thích, nhưng lại thôi.
Sinh ra, lớn lên ở Sài Gòn, con anh không biết dang nắng ngoài đồng móc đất sét về nặn tượng, nhưng đã có hộp chất dẻo nhiều màu, bán sẵn trong nhà sách. Con anh không biết tự tay làm cái chong chóng bằng giấy, găm vào cọng kẽm, không biết ngắt cái lá quấn sao cho kêu te te giữa hai bờ môi mím lại... nhưng có thể thao tác thành thục mỗi khi muốn set up một dĩa game, khi tự mò mẫm với bàn phím để tìm ra những tuyệt chiêu khai thác hiệu quả trò chơi điện tử.
Con trẻ nhìn anh, mỉm cười thỏ thẻ: Chơi như vầy cũng vui lắm, ba há? Anh ôm con vào lòng, âu yếm: Ờ, vui nhiều. Con nép vào người anh, nhỏ bé. Và lần nữa, bất giác anh lại thấy anh bằng tuổi con bây giờ, với chiếc tàu cau cùng đám bụi mờ một ngày thơ dại.
Tháng 02-2001

6. CẦU TUỘT
Gởi Nguyễn Duy Chính
Bạn phương xa vừa gởi anh một thư dài, có đoạn kể ba bố con đi chơi công viên. Một cháu lên bốn, một cháu lên hai. Thấy cái cầu tuột cao, cháu lớn mạnh dạn leo lên rồi thả người trôi xuống nhẹ nhàng. Đứa em thích thú, muốn bắt chước, nhưng rồi chỉ ngập ngừng đứng ở chân thang. Bố cháu khuyến khích mấy cũng không kết quả. Một ông bố khác đứng cạnh đó bèn góp ý: “Ông cùng leo lên với cháu, cháu sẽ hết sợ.” Bạn anh thử làm theo, quả nhiên thành công. Sau đó cháu bé có thể tự chơi cầu tuột một mình, rất đỗi thích thú.


Kết thúc câu chuyện, bạn anh triết lý: Dưới con mắt người lớn, việc chơi cầu tuột thật đơn giản, thật dễ dàng, nhưng trong cái đầu của cháu bé hai tuổi vấn đề lại khác hẳn. Cháu chưa từng trải nghiệm trò này bao giờ. Lần thử nghiệm đầu tiên chắc chắn là một thách thức lớn, rất lớn. Nó không còn là trò chơi mà chính là một nỗ lực to tát, buộc đứa trẻ phải thắng được nỗi sợ hãi trước một cái gì mới mẻ, xa lạ. Trong cuộc sống, người lớn cũng y như vậy. Lắm phen họ vẫn chỉ là những trẻ thơ rụt rè, sợ hãi mỗi khi phải tiếp xúc lần đầu một cái gì mới lạ, vượt khỏi tầm nhìn cố hữu. Cho nên muốn dẫn dắt ai, ta đừng bảo họ bằng lời nói suông, mà phải đi chung một đường với họ, nhập cuộc với họ.
Kết luận thâm thúy của ông bạn buộc anh vẩn vơ suy nghĩ. Và anh liên tưởng đến nguyên do vì sao trong lịch sử nhân loại đã có các đấng cứu thế chọn cách hóa thân làm người. Phải chăng để chia sẻ nỗi sướng vui sầu khổ nhân sinh, và để nhập cuộc, cùng đi chung với con người trên nẻo đường trở về quê xưa nhà cũ?
04-5-2006

7. CHÍN VÀ MƯỜI
Một cuốn sách về nghi lễ Cao Đài in năm 1939 ở Bạc Liêu, nay đã trở thành di thư vì từ lâu người soạn đã “vĩnh du tiên cảnh”, đã mãi dạo cảnh tiên, như lời lẽ thỉnh thoảng còn gặp trong vài tấm trướng đi phúng tang. Con gái của người xưa ấy muốn gấp rút in lại, và nhờ anh làm giúp phần san nhuận. Mà lỗi in sai nhiều quá. Chữ in nhòe nhiều quá. Điển cố nhiều quá. Lời ăn tiếng nói người Nam Kỳ thuở trước cũng khác nay nhiều quá. Nên cứ phải mầy mò tra cứu tỉ mỉ, cân nhắc từng mặt chữ, từng nghĩa lý. Công việc làm anh như chìm đắm suốt trong những ngày này. Đã ra một hạn chót. Rồi lại gia hạn. Và tiếp tục tự gia hạn.
Mấy tuần rồi vin vào tính cần kíp sự việc anh thấy mình có lý do chánh đáng để không về thăm mẹ như thông lệ. Và cũng làm biếng “a lô” một tiếng với mẹ nữa. Nhớ con, cũng sợ con bệnh mà giấu, nên mẹ gọi điện. Cho rằng bị quấy rầy đang lúc cần tập trung làm việc, anh không vui. Nghe giọng anh mẹ cũng không vui, ngắn gọn vài câu rồi cúp máy.
Hôm nay anh làm tiếp sang phần văn tế, con cúng cha mẹ. Giữa trang sách cũ bỗng chựng lại. Kìa chín chữ cù lao lồng lộng / Nọ mười ơn dưỡng dục minh minh. Người xưa khéo lồng cả đạo đức Nho và luân lý Phật vỏn vẹn trong hai câu lục bát để nhắc kẻ làm con chữ hiếu.
Anh liên tưởng bài Lục Nga trong Kinh Thi:
Phụ hề sanh ngã / Mẫu hề cúc ngã / Phủ ngã súc ngã / Trưởng ngã dục ngã / Cố ngã phục ngã / Xuất nhập phúc ngã / Dục báo chi đức / Hạo thiên võng cực.
(Cha thời sanh ta / Mẹ thời dưỡng ta / Vuốt ve cho bú / Nuôi lớn dạy dỗ / Trông nom nâng đỡ / Ra vô ẵm bồng / Muốn báo ơn đức / Trời cao lồng lộng.)
Tất cả những nhọc nhằn, vất vả của cha mẹ sanh dưỡng con tóm trong chín chữ: sanh (đẻ con), cúc (nuôi con), phủ (vỗ về), súc (cho bú), trưởng (nuôi lớn), dục (dạy dỗ, cho ăn học), cố (trông nom), phục (nâng đỡ), phúc (ẵm bồng).


Mười ơn sâu của mẹ cha mà con cái khó bề báo đáp, theo Phật là: (1) ơn mẹ mang thai và gìn giữ thai nhi; (2) ơn mẹ sanh con chịu vô vàn khổ sở, đau đớn; (3) ơn mẹ sanh con rồi nhìn thấy con lành lặn thì quên hết mọi âu lo khổ nhọc đã chịu; (4) ơn mẹ nuốt đắng để mớm ngọt cho con, như nhai cơm búng; (5) ơn mẹ chịu nằm chỗ ẩm ướt để nhường con chỗ khô ráo; (6) ơn mẹ cho con bú mớm; (7) ơn cha mẹ giặt rửa ráy dơ uế cho con; (8) ơn cha mẹ luôn nhớ nghĩ đến con khi con xa nhà; (9) ơn cha mẹ luôn an ủi và tha thứ cho con, hoặc vì nuôi con mà có khi phải gây nghiệp xấu; (10) ơn cha mẹ suốt đời thương yêu ân cần đối với con.
Anh xấu hổ. Ứa nước mắt. Cha mẹ nuôi ăn học, chữ nghĩa cho lắm vào để rồi mượn cớ này, vin cớ cái kia trót làm mẹ buồn. Tắt computer, anh dắt xe ra cổng.
12-11-2008

8. CHỮ VÀ NGHĨA
Từ khi làm từ đường và tổ chức giỗ hội, năm nào cũng vậy, sau rằm tháng Giêng chị lại chuẩn bị mướn xe, sửa soạn các món để đưa ba má cùng người chú đã hưu trí rời Sài Gòn đi cù lao Long Thuận, huyện Hồng Ngự. Nói như lớp xưa là về Lục Tỉnh, mặc dù từ thời Tây mới chiếm Nam Kỳ thì sáu tỉnh đã sớm bị chia nhỏ thành hai mươi, rồi hai mươi mốt tỉnh.
Năm nay ngày giỗ hội trùng với khóa tu dưỡng trong tiết xuân phân. Ba má chị vì việc đạo, không về quê được. Chú ghé nhà, bàn: “Mướn nguyên chiếc xe tốn tiền quá. Chú cháu mình đi xe đò cho gọn.”
Chị ngẫm nghĩ rồi cười: “Lâu lắm mới nghe hai tiếng xe đò. Bây giờ dân thành phố quen nói xe khách, xe buýt. Xe chạy trên lộ, đò đi dưới sông. Xe là xe, đò là đò, vậy mà dân cố cựu Lục Tỉnh vẫn quen nói ghép thành xe đò.”
Nhận ra một thói quen cửa miệng hình thành từ thuở nhỏ, chú cũng cười: “Nam Kỳ rộng hơn sáu mươi bảy ngàn cây số vuông, không chỉ là đồng bằng lớn nhứt nước mà còn là châu thổ lớn nhứt Đông Nam Á. Sông nước, kinh rạch Nam Kỳ chằng chịt, tổng số chiều dài lên tới trên năm ngàn cây số. Hồi xưa bà con đi lại chỉ dùng đò ngang, đò dọc. Tới chừng có xe hơi chở khách trên đường lộ thì bà con kêu luôn là xe đò.”
Ngừng một chút, chú thủng thỉnh nói tiếp: “Quá giang là qua sông. Vậy mà đứng bên đường lộ, ngoắc xe xin đi ké, đi nhờ thì bà con mình kêu là quá giang, có giang.”
Nghe vậy chị lại liên tưởng tới nghề in. Hồi xưa thợ in phải bốc từng con chữ rời (movable type), xếp từng chữ cái mới thành từ ngữ, ra câu cú. Do đó nghề in có cách nói “xếp chữ, sắp chữ”. Bây giờ tân tiến, chỉ cần gõ phím trên keyboard máy computer là xong, tiện lợi biết bao. Nghề sắp chữ mai một từ lâu, thế nhưng hàng tuần ở bìa hai của tờ tuần báo đạo thân quen chị vẫn nhìn thấy: “Sắp chữ tại phòng vi tính …”
Chị nhận ra, theo dòng chảy thời gian, có một số lời ăn tiếng nói dần dần biến mất vì cái mà nó gọi tên đã lùi xa vào dĩ vãng. Bù lại, phát sinh thêm một số từ ngữ mới để kịp thời thích nghi cuộc sống đổi thay. Song, vẫn còn đó một số chữ cũ kỹ nhưng mang mặc ý nghĩa mới, và con người vẫn dùng theo thói quen mà ít khi lưu tâm rằng cách hiểu ban sơ nay không còn nữa.
06-3-2007

9. CÓ MỘT NỤ CƯỜI
Ba ngày trung tuần tháng Bảy âm lịch, tôi và vài bạn đạo ra Trung dự đại lễ của một hội thánh lớn. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đặt chân đến quê hương “chưa mưa đã thấm” với thứ danh tửu “chưa nhấm đã say”. Biết thế, ban tổ chức tuy rất bận rộn nhọc nhằn với đại lễ vẫn chu đáo sắp đặt sẵn sàng cho chúng tôi việc đi lại, đưa đón cho cả hai chuyến khứ hồi, bố trí nơi lưu trú tiện lợi và thoải mái. Thời gian eo hẹp của ngày chót cũng không vì thế ngăn trở được ban tổ chức tạo điều kiện đưa chúng tôi thăm một thoáng phố cổ Hội An… Ái ngại vì quý anh phải vất vả thêm sau khi vừa tổ chức thành công đại lễ, chúng tôi phải cố từ tạ để gác lại mục đi Ngũ Hành Sơn mà quý anh định sẵn.
Một ngày rưỡi đầu tiên, chúng tôi được nếm mùi mưa gió miền Trung. Có thời tiết khắc nghiệt như vậy mới thấy tận mắt óc tổ chức và tài tháo vát của bổn đạo địa phương. Các lều bạt, sân khấu lớn ngoài trời… đã dàn dựng, thiết trí ổn định rốt cuộc đành phải thay đổi tức tốc. Ngoài trời gió mưa cứ vần vũ tơi bời, nhưng các chương trình đã lên lịch đều tuần tự diễn ra suôn sẻ.
Nhờ ơn Trời, từ trưa ngày Thứ Hai cho đến khi xong đại hội thì mây quang, nắng đẹp. Cùng với hơn ba ngàn người đời và đạo, chúng tôi được dự trọn vẹn một đại lễ với ấn tượng sâu sắc.
Tuy nhiên, bất ngờ xảy ra trục trặc nhỏ. Trong chương trình có mục vị lãnh đạo hội thánh đọc diễn văn. Cụ xấp xỉ chín mươi, nên ban tổ chức cắt đặt người sẽ giúp cụ bước từ hàng ghế danh dự tiến lên lễ đài. Và một bản văn in chữ to dành riêng cho bậc trưởng lão sẽ được trang trọng dâng trình sau đó… Có lẽ quá mệt vì suốt mấy ngày liền xốc vác lo liệu cho đại lễ, người được phân công không kịp sẵn sàng bên cạnh vị lãnh đạo cao nhất của hội thánh đúng vào lúc cụ được long trọng thỉnh lên lễ đài.
Thật nhanh thôi, nhưng sự cố trên lễ đài dường như đã khiến cho hàng ngàn người dự lễ chợt lặng im phăng phắc, ái ngại, băn khoăn... Tôi chạnh lòng, có cảm giác mơ hồ như bầu trời áp thấp nhiệt đới chợt đè xuống nặng trĩu. Và cũng như hàng ngàn cặp mắt khác, tôi chăm chăm nhìn lên bậc Thiên ân hướng đạo, thắc thỏm…
Một đạo hữu nào đó linh hoạt tìm ngay bản văn khác và mau lẹ tiến lên lễ đài, nhẹ bước đến bên cụ, cung kính dâng lên. Và kìa, cụ ung dung đón lấy bản văn in chữ nhỏ, nhoẻn miệng nở nụ cười bao dung hiền hậu.
Tôi nhìn quanh, bắt gặp những gương mặt dãn ra, những miệng cười thán phục và những cái đầu gục gặc tán thưởng. Rồi cụ kết thúc diễn văn. Những tràng pháo tay giòn giã như càng thêm giòn giã.
Đức Lão Tử dạy: Họa hề phúc chi sở ỷ. (Họa là chỗ dựa của phúc.) Tương tự, dân gian mình bảo: Trong cái rủi có cái may. Quả đúng như thế. Bởi, nếu không có chút xíu trục trặc đó trên lễ đài, làm sao mọi người có dịp tận mắt nhìn thấy công phu hàm dưỡng của bậc Thiên ân hướng đạo?
31-8-2010

10. CÒN LẠI
Hàng ngày chở con gái đi học, để rút ngắn quãng đường từ bờ kinh Nhiêu Lộc bên Phú Nhuận sang mãi quận Năm, anh chịu khó len theo mấy ngõ hẹp loanh quanh trong các hẻm nhỏ ngoắt ngoéo của giáo xứ An Lạc.
Từ khi làm thêm công trình xử lý nước, người ta chắn vách tôn ngăn cả một đoạn dài ven kinh, ngay ở đầu cầu Sạn đã phá bỏ. Dòng người đông đúc vào giờ cao điểm nhiều khi phải dồn cục lại để chậm chậm lách xe tránh nhau ở phần hẻm hầu như chỉ còn vừa đủ rộng cho một thân xe gắn máy.
Sáng Thứ Ba, anh đưa con trở lại trường sau ngày nghỉ bù tết dương lịch. Lúc giảm ga quẹo cua để chực thoát khỏi hẻm, anh bất chợt nhìn thấy ở trước đầu xe mình một dấu tích của mùa Giáng Sinh vừa trôi qua. Nhà chật, không sân, gia chủ tận dụng mẻm đất sát vách để tái tạo hình ảnh thu nhỏ máng cỏ nằm khiêm nhường trong hang đá.
Xe nhích bánh chầm chậm, anh có dịp đưa mắt nhìn vào trong hang. Không còn các tượng nhỏ, nom trống trải. Và kia… chủ nhà quét rác buổi sớm từ bao giờ mà chưa dẹp cây chổi. Thân chổi dựng ngược, đầu chổi cỏ lau cùn tựa hẳn vào vách hang, lớp sơn phủ trên giấy xi măng giả làm màu đá vốn đã cũ đi vì bụi đường và mấy cơn mưa bất thường vào dịp cuối năm trông càng thêm thảm hại.
Cho xe chạy theo ven kinh, lúc này đường khá trống trải mà anh chẳng buồn tăng tốc. Vẫn lỏng tay ga, anh bận lòng nghĩ về hang đá cũ, thầm hỏi sao chủ nhà kia nỡ vô tâm, sơ ý thế.
03-01-2006