Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

5 HỒN THƠ XỨ BIỂN (MỎNG MẢNH TƠ TRỜI)


21. HỒN THƠ XỨ BIỂN
Tưởng nhớ Từ Thế Mộng (1937-2007)

Image result for "Từ Thế Mộng"

Ngồi xe suốt tuyến đường Phan Thiết về Sài Gòn, lại mang trong mình căn bệnh đeo đẳng nhiều năm, ông bạn quên tuổi của anh tất nhiên mệt lắm. Lâu rồi mới vô Nam mà chẳng được nán thêm một bữa để còn gặp nhau, phải vội về ngay, nào kịp dưỡng sức cho thân xác đỡ rêm nhức, bớt ê ẩm sau cuộc hành trình ngót nghét hai trăm cây số. Anh tiếc ngẩn ngơ khi buổi tối cầm trên tay quyển thơ ông bạn nhờ chuyển lại.
Hai năm trước, thơ Trường Ca Má Thương Yêu in ở Bình Thuận. Và cuối tháng Ba này Thơ Từ Thế Mộng vừa xong ở Sài Gòn. In thật gấp mà kỹ càng, đẹp đẽ, sang trọng từ ruột tới bìa, từ lời thơ cho tới biết bao nghĩa tình kết tụ để quyển thơ vuông vắn (17x17cm) sớm hình thành. Phải, quyển thơ thứ năm in riêng này chính là tấm lòng của chị Bích Ngân ở nhà xuất bản Văn Nghệ, của họa sĩ Lê Ký Thương chăm chút trình bày, của người con gái hiếu thảo làm món quà gởi đấng sinh thành cao tuổi. Không chừng chị ấy chính là người mà bạn anh tha thiết: Con và ba như hai giọt nước / Nghiêng bên nào cũng thấy long lanh!
Thơ bạn anh phảng phất mùi biển và không thiếu hơi hướm những dáng dấp yêu kiều làm đắm đuối kẻ tự nhận mình mê gái lẫn mê thơ. Con người hồn hậu, vui tánh nên lục bát cũng tinh nghịch, hồn nhiên: Nhỏ ơi đừng xõa tóc thề / Kẻo anh lạc giữa bốn bề gió lên! . . . Anh ơi đừng nhíu lông mày / Đừng xao xác ngó mà trầy trụa em! Dẫu thế, lục bát bạn anh vẫn dung dị, lãng mạn như ca dao từ thuở: Tóc thề chớm tới vai thôi / Mà sao em buộc lòng tôi thế này
Một hồn thơ giàu tình cảm, lắm yêu người thì đố sao khỏi trĩu lòng nhớ nghĩ hữu bằng viễn xứ: Trời đang lạnh gắt ở phương xa / Rượu nốc không nguôi nỗi nhớ nhà / Lạnh lắm mày đừng xương cốt rụi / Kẻo chìm đáy cốc một mình ta! Không phải tứ tuyệt, vậy mà khổ thơ ấy tuôn về anh cái man mác bao la của Đường thi sầu vạn cổ.
Quyển thơ tạm gấp lại nhưng lòng thơ xứ biển vẫn mở rộng cho kẻ nhận thơ: “Bản tặng Lê Anh Dũng / Vừa gặp đã muốn là tri âm nhưng mãi vẫn không gặp. Đành làm tri âm… từ xa vậy, nghe Dũng!” Anh bùi ngùi nhìn thật lâu nét chữ bay bướm ở trang đầu quyển thơ, ước ao giá như lúc này có ông bạn một bên, cùng sẻ chia chén rượu.
30-3-2007

22. KẺ CHỐNG NGƯỜI CHÈO
Anh đặt mua mỗi ngày hai nhật báo, đều in và phát hành tại thành phố. Khi xong buổi ăn sáng, cốc cà phê và ấm trà con đã sẵn, anh bê ra góc sân, cạnh vài chậu kiểng nhỏ cốt tạo một rẻo xanh xanh cho cuộc sống thị thành. Thế rồi, vừa độc ẩm anh vừa lật nhanh các trang báo.
Nhiều hôm cả hai tờ báo khá dày dặn mà chỉ loáng một cái là lướt xong qua hết các trang. Ấm trà chưa kịp cạn. Những lúc ấy, xếp lại tờ báo bỏ sang một bên, anh thoáng cảm thấy chút áy náy. Mỗi ngày làm ra một tờ báo hơn chục trang như thế, là công sức và trí não của bao nhiêu người góp vào. Anh tự xét thời gian mình bỏ ra đọc không tương xứng với thời gian để tờ báo được hình thành và được mang tới tận cửa nhà anh mỗi sáng. Nhưng biết sao được. Người phương Tây đẻ ra nhật báo và dường như chính họ cũng dạy rằng mua báo là để đọc nhanh, rồi bỏ.
Vậy mà không phải lúc nào cũng có thể đọc nhanh rồi bỏ. Những hôm có nhiều tin tức về các vụ tham nhũng cứ mãi xử lý nhùng nhằng như miếng gân gà của Tào Tháo là những hôm phải mất nhiều thời gian hơn, để rồi sau đó lòng anh nặng nề hơn với nỗi chán chường khi thấy lòng tin của mình lâu nay vốn đã lắm xói mòn lại càng bị khoét sâu thêm hơn nữa. Những lúc ấy, anh hay nhớ tới hai câu thơ của Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877-1961): Cảm thương danh lợi cả hai thằng, / Kẻ chống người chèo bộ xí xăng.
Anh thử hình dung cái bộ vó của “cả hai thằng” đó, tự hỏi nó tệ cỡ nào mà lão thi nhân đất Thần Kinh bảo là “xí xăng”. Có lần thử tra từ điển nhưng anh không tìm thấy nghĩa, bèn đoán là tiếng địa phương, và tưởng tượng rằng cái kẻ có bộ vó xí xăng thì hẳn đáng cười lắm, đáng khinh lắm. Rồi anh nghĩ tới thân phận kẻ tham nhũng, thấy họ đều là người quyền chức. Quyền càng cao và chức càng trọng thì càng tham nhũng lớn và phải thật lâu dài mới đổ bể. Sao họ “tài” thế nhỉ? Bởi vì họ khéo chèo khéo chống chăng? Thế rồi, anh lẩn thẩn sửa thơ cổ nhân mà không xin phép: Cảm thương quyền chức cả hai thằng, / Kẻ chống người chèo bộ xí xăng.
Cái hình ảnh ấy sống động quá. Mà cũng ngán ngẫm quá.
28-10-2006

23. KHÁCH Ở QUÊ LÊN
Không hẹn mà có khách miền Tây lên, ghé chơi một buổi. Bữa cơm, ngồi chung bàn, bọn trẻ ngạc nhiên, lạ lẫm nhìn khách mặc bộ bà ba trắng hơi ngả vàng, như muốn tiệp màu với đầu tóc búi tó và chòm râu thưa dưới cằm.
Ngồi ngay ngắn, khách so đũa gác ngang qua miệng chén cơm, hai tay kính cẩn nâng lên trán, miệng lầm thầm. Đặt chén cơm xuống bàn, hai bàn tay khum khum cầm giữa đôi đũa như hai nén nhang để nằm ngang, khách từ tốn xá xá ba lượt rồi mới nâng chén, thủng thẳng và một miếng cơm...
Buổi tối, anh lựa lời giảng giải cho bọn trẻ hiểu nghi thức mở đầu bữa cơm của khách. Anh nhớ mang máng có một sách nói về những lưu dân Nam tiến mở cõi ngày xưa, và tập tục ông bà thuở trước mỗi khi được bỏ vào miệng hạt ngọc trắng ngần lại thầm nguyện tạ ơn những người vô danh khai hoang trồng cấy...
Rồi anh chợt nhớ. Lâu nay bọn trẻ ngồi vào bàn là tự nhiên quơ đũa, cầm chén. Trẻ chỉ biết gạo bán sẵn ở chợ, không hình dung được từ đồng ruộng bùn lầy đến chén cơm nóng dẻo là biết bao công phu nhọc nhằn và lo toan bất trắc của người làm ra hạt lúa.
Anh lại liên tưởng những miếng cơm đôi khi trẻ bỏ mứa, nhớ một vài lần ngồi trong nhà hàng sang trọng, bàn tiệc ê hề mà chẳng ai muốn động đũa... Và chả hiểu ma quỷ gì xui khiến, bỗng dưng anh nghĩ quàng tới người ăn nhờ sông biển mà lạnh lùng tàn phá biển sông, kẻ ăn nhờ núi rừng mà thản nhiên hủy diệt rừng núi. Giữa ngần ấy thứ, chẳng rõ có mối liên hệ nào không?
27-4-1999

24. KHÁCH THƯ VIỆN
Ở một trường đại học lớn trong thành phố, thư viện rất đầy đủ các tiện nghi vật chất hiện đại và khá phong phú sách tham khảo, đặc biệt là những sách quý, rất cập nhật và đắt tiền. Nhà trường chu đáo chia ra hai cấp: thư viện đại học và thư viện sau đại học.
Chẳng hề dính dáng đề tài luận văn, luận án như người khác, nhưng anh hay ghé thư viện sau đại học. Đơn giản vì ở đây có những bộ bách khoa từ điển danh tiếng, được đặt mua từ nước ngoài, đều là ấn bản mới nhất. Anh được rớ đến Compton (Mỹ) rồi Britannica (Anh) ngay khi hai bộ bách khoa vài chục quyển dày cộm vừa được bày lên kệ, choán hẳn một ngăn rộng.
Ở nhà dễ gì có được loại tri thức tuyệt vời này. Thích nhất là cái thú khi nâng niu từng cuốn nặng dày trên tay, vuốt ve từng trang giấy trắng mỏng dính mà dai bền, chi chít chữ in sắc sảo. Thế nên, hễ cần tra cứu cho một trang viết, anh lại ghé vào với Compton và Britannica, để đuợc thỏa mãn với những giải đáp khoa học thâm sâu và khả tín.
Mới rồi tình cờ truy tìm hai quyển trong bộ Britannica, anh ngỡ ngàng thấy ai đó đã làm nhàu nát cả nhiều trang liên tiếp. Chưa rách, nhưng không làm sao vuốt thẳng thớm trở lại. Hai quyển sách còn mới tinh trông cứ như bị thương tật. Mang vật chứng ra bàn thủ thư, anh nhìn cô, cả hai cười buồn. Khách ở thư viện, ai lại nỡ thế nhỉ?
16-9-1999

25. KHÔNG CHỈ LÀ THƠ
Khoảng giữa những năm chín mươi thế kỷ trước, không nhớ rõ nhờ cơ duyên nào tôi hạnh ngộ nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương. Nữ sĩ khoáng đạt nên khoảng cách tuổi tác giữa chốn nhân gian khấp khểnh được quẳng vèo vào mênh mông sa mù của ba ngàn thế giới, và tôi gọi con người tài hoa này là chị với tình thân kính.


Gặp chị và bảo hạnh ngộ thì phải đâu là sểnh bước hụt chân mà lọt nẻo mòn hoa ngôn hay mỹ từ ước lệ. Bởi lẽ, trò chuyện với chị là được nghe thơ, những vần thơ dung dị trong sáng, đẹp tươi như tâm hồn tươi đẹp và giọng cười ròn trong trẻo của người thơ đất Thần Kinh.
Ghé nhà chị trong một ngõ ở quận Ba là bước vào cõi riêng tao nhã của hoa lan, của thư pháp, của hoành phi đối liễn. Dư hương vương giả hòa quyện với đạm vị Nho phong. Trong cõi riêng ấy còn có anh Bá Thùy, người bạn đời tri kỷ của chị, lúc nào cũng lịch thiệp ân cần, để cùng với chị kín đáo trao gởi một lời xác tín cho những ai hoài nghi về hai chữ hạnh phúc.
Đọc Hồi Ức Về Cha Tôi: Ưng Bình Thúc Giạ Thị (nhà xuất bản Văn Nghệ, 1996), xúc động vì những mảnh đời thường của cụ Ưng Bình được người con gái hiếu thảo ghi chép bằng tấm lòng thương nhớ thấm đẫm lời văn tiếng thơ, tôi viết một bài ngắn đăng tuần báo Giác Ngộ. Để chia sẻ và đáp tạ chị tặng sách.
Cuối tháng Tám 1997, Huế kỷ niệm một trăm hai mươi năm ngày sinh nhà thơ Ưng Bình. Chị hỏi tôi có thể ra cố đô chăng. Thích lắm mà nào đi được, tôi chỉ kịp gởi khoảng hai ngàn từ để góp lời với cuộc hội thảo trên sông Hương. Bài Ý Vị Cư Trần Bất Nhiễm Trong Thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị sau đó đăng một tạp chí ở Huế và in lại trong một hiệp tuyển của tạp chí ấy (nay tên là Nghiên Cứu Và Phát Triển).
Có thơ in mới hay tái bản, chị đều nhớ tôi và lại mất công anh Bá Thùy mang đến tận nhà. Chiều Chủ Nhật vừa qua, từ một họ đạo mộc mạc ở làng Long An trở về, tôi thấy trên bàn viết thêm một tập thơ chị tặng.
Mỗi ngày thương Mẹ nhiều hơn,
Nghĩ xa xôi nỗi tủi buồn càng sâu!
Lại mong xin, lại nguyện cầu,
Sao cho Mẹ sống dài lâu với mình.
(Trái Gió Trở Trời)
Mẹ đã xa rồi – Mẹ đã xa,
Từ bình minh đến ánh dương tà.
Chập chờn hình ảnh … bao thương nhớ!
Lẩn quẩn trông chừng … lúc lại qua …
(Mẹ Đã Xa Rồi)
Nhớ những chiều mưa trên đất Huế,
Khi Cha còn sống vẫn cùng con …
Bên lò sưởi ấm Cha thường kể:
Câu chuyện tâm tình, chuyện nước non.
. . .
Chiều nay đất khách nhớ quê hương,
Nhớ nắng hàng cau với cảnh vườn.
Nhớ nẻo đường về thôn Vĩ Dạ,
Nhớ chiều thu quạnh lúc tà dương.
(Chiều Mưa Nhớ Nhà)
Tôi lần giở từng trang Thơ Dâng Cha Mẹ (nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn). Ấn phẩm mỹ miều, sang trọng này là món quà chị gởi mười phương trong mùa báo hiếu. Vâng, quả thật đây không chỉ là thơ… Xin cảm ơn chị Tôn Nữ Hỷ Khương.
18-9-2007

26. KHÚC TRI ÂM
Chị sáng tác từ năm 1959, có thơ đăng báo ở Huế và Sài Gòn. Năm năm sau chị in tập thơ đầu tay − Đợi Mùa Trăng. Các tập thơ khác lần lượt ra đời. Không kể tập văn xuôi hồi ức về người cha thân yêu, tri kỷ (Ưng Bình Thúc Giạ Thị), tới năm 2007 chị in được tám tập thơ. Trong đó tái bản vài lần là tập thơ Hãy Cho Nhau, vốn được rất nhiều người ưa thích.
Những năm gần đây, thơ chị xuất hiện nhiều trên lịch, trên tre trúc, trên lụa, trên đá… với đủ nét thư pháp tiếng Việt khác nhau. Có những câu mau chóng đi vào dân gian, thành thử lắm khi người ta quên luôn tên chị mà chỉ nhớ thơ vì thích yêu, tán thưởng:
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời
Chả trách tháng 11 năm 2007, một ông thầy thuốc làm thơ nói rằng thơ chị có lẽ đã trở thành ca dao mất rồi.
Nhiều người yêu thơ chị rồi làm quen. Người thơ quá khả ái, nên bạn thơ gần xa không kể xiết. Với ai trước sau chị vẫn chỉ một tấm lòng, y hệt như thơ chị:
Còn gặp nhau thì hãy cứ thương
Tình người muôn thuở vẫn còn vương
Chắt chiu một chút tình thương mến
Cho khắp muôn phương vạn nẻo đường
Đầu xuân này chị in tập Khúc Tri Âm (nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn), và chị để dành vợ chồng tôi một bản đẹp.
Dày hơn ba trăm trang giấy couché, nhiều ảnh màu và thư pháp, tập sách trĩu nặng tình thương mến đằm thắm của đông đảo văn nghệ sĩ, nhà tu, nhà giáo, và nhiều giới khác nhau trong xã hội dành cho chị. Nhiều tên tuổi lẫy lừng và không ít tính danh dường như mới mẻ. Nhưng chung nhất một điều, ấy là những câu thơ từ trái tim mà mọi người ân cần tặng chị, trân trọng trao gởi chị. Và chị đã nâng niu, gìn giữ tất cả những tình cao ý đẹp ấy trong suốt đời mình, để rồi xuân này chị tập hợp lại, và quyển sách mỹ miều in ra, gọi là “Thơ bằng hữu và độc giả đề tặng Tôn Nữ Hỷ Khương”.
Nữ sĩ Vân Nương dường như đã nói giúp chị về tập Khúc Tri Âm:
Ta gom tất cả vào tâm tưởng
Để sáng niềm tin giữa cảm thông
Còn chị? Chị vẫn mãi là một Hỷ Khương giản dị, chân tình, hồn hậu:
Cảm lời ai nét ngọc vàng
Tạ tình ai gấm thêu hàng tặng trao
Duyên thơ đầm ấm ngọt ngào
Khúc Tri Âm đó phổ vào đàn tâm
Chị Hỷ Khương ơi! Đời thơ của chị vốn đã là hy hữu giữa đời thường, và Khúc Tri Âm này hồ dễ mấy ai cũng được như thế?
02-3-2010

27. LẮNG ĐỌNG
Gởi Phạm Tôn
Má tôi đau. Suốt một tháng lần lượt nằm chữa trị ở ba bệnh viện. Cuối cùng thì vượt qua được cơn tai biến nhồi máu não và đã trở về nhà an dưỡng. Bây giờ vẫn chưa thể rời giường, vẫn phải theo dõi, chăm sóc kỹ và kết hợp vật lý trị liệu hàng ngày. Nhưng vậy là phước lành lắm rồi, là mừng lắm rồi.
Những ngày còn ở trong bệnh viện 115 chăm sóc má, tôi bất ngờ nhận được sách biếu qua đường bưu điện. Không khỏi cảm thấy có lỗi vì hơn một năm qua chẳng liên lạc với người gởi sách. Bèn “a lô” một cái. Ông vui vẻ trả lời, câu chuyện giòn giã khiến tôi nhẹ lòng. Ông khoe đã thoát được căn bệnh hiểm nghèo, bây giờ sức khỏe ổn định và ông đang tận dụng thời gian vàng ngọc còn có được để tập trung làm nốt những việc mà ông cho là phải đạo, như tham gia làm từ thiện và hàng tuần nuôi dưỡng trang blog cá nhân để truyền tải những thông tin đúng đắn về ông ngoại, một nhân vật lịch sử. Nghe chuyện tôi mừng.

Image result for phạm quỳnh
Phạm Quỳnh

Phạm Quỳnh – Con Người Và Thời Gian (nhà xuất bản Thanh Niên). Tôi đọc đứt quãng trong những tối thao thức nằm ghế bố cạnh giường má trong bệnh viện 115. Dẫu không thể đọc một mạch nhưng vẫn hân thưởng được thuật kể chuyện duyên dáng, lôi cuốn của Khúc Hà Linh. Số phận một con người tài hoa, ẩn tình một nhà văn hóa mệnh bạc vốn chịu nhiều búa rìu thị phi suốt một thời gian dài nay được nhà văn đất Hải Dương lần lượt dàn trải trong khoảng 180 trang sách. Tấm lòng người viết đượm trong từng con chữ chiêu tuyết cho Phạm tiền bối, cũng quê xứ Hải Dương. Thời gian đã công bằng với một nhân vật lịch sử. Nghĩ thật đáng mừng.
Gấp quyển sách lại, tôi không khỏi nhớ nghĩ đến một số nhân vật lịch sử khác. Trong khoảng mười mấy năm qua, các vị cũng đã được trả lại tuổi tên. Thời gian quả thật rất mầu nhiệm. Đây là niềm tin mà mười lăm năm trước, trên bìa lưng một cuốn sử Cao Đài, tôi từng bày tỏ: “Có những vấn đề lịch sử phải kiên nhẫn đợi đến khi dòng thời gian trôi qua rồi, đợi đến khi con người lịch sử đã về với cõi vĩnh hằng, đợi đến khi mọi cặn cáu của dư luận, thành kiến và kỳ thị đã lắng đọng vào dĩ vãng, nằm im dưới đáy nước trong trẻo của chân lý bất biến, lúc bấy giờ con người mới có thể vô tư nhìn lại lịch sử và hiểu được phần nào tâm tư cùng can tràng những người thiên cổ.”
Bây giờ tôi vẫn vững tin như vậy.
22-6-2010

28. LẺ BẠN
Sân đình rộng, râm mát nhờ tàn đa cổ thụ xanh um. Không nhằm dịp tế lễ, ngày thường chẳng ai vãng lai, trừ mấy người nhàn nhã lớn tuổi thích ghé vào hưởng chút không khí tĩnh mịch hiếm hoi trong thành phố chật chội. Ông từ mượn một rẻo đất nhỏ trong sân đình làm quán cà phê bình dân với vài cái bàn, ghế thấp lè tè. Loại bàn ghế nhựa, có thể xếp chồng cái này lên cái kia rất gọn nhẹ. Cà phê không ngon và trà chẳng hơn gì, nhưng khách hàng của ông từ không ai kén chọn. Kêu ly cà phê đen kèm bình trà chỉ như cái cớ để thuê một chỗ ngồi rẻ tiền.
Ông giáo bạn anh nghỉ hưu, nhà bên cạnh đình. Những khi anh ghé chơi bạn già lại kéo ra đó. Lâu ngày hóa quen, lúc vắng khách ông từ cũng ráp vô ngồi bộ ba. Kẻ điếu cày, người thuốc lá. Đủ chuyện đầu Ngô mình Sở.
Anh thích tán gẫu với ông từ. Trong câu chuyện tào lao ông có thể vô tình chỉ giáo cho anh đôi điều thú vị. Nói theo thời thượng, ông có thể cung cấp ít nhiều thông tin hữu ích. Bạn anh là con mọt sách, có đủ tư liệu trong đầu để đối đáp, tung hứng với ông từ. Riêng anh hơi lép vế, biết thân biết phận nên thường làm kẻ lắng nghe.
Hôm nay chẳng hạn. Trưa vắng khách, cả ba tụm một bàn. Anh nhìn ra giữa sân đình, chỗ cột cờ thấy tươm tất hơn mọi khi. Cái vòng tròn xây gạch, tô xi măng bao quanh chân cột cờ đã được quét vôi trắng. Bên trong kiểng mọc tươi tốt, tỏ ra được chăm sóc. Thấy anh chú ý đám kiểng, ông từ hỏi: “Ông giáo biết tên nó chớ?”
Thân kiểng thấp, lá mọc gần sát đất. Những bẹ lá thuôn dài, mặt trên xanh lục, mặt dưới màu tía. Anh nói: “Lẻ bạn, phải không?” Ông từ gật gù, nhưng kiểu ông cười cười làm anh chột dạ. Xưa nay rất dốt thực vật học, anh nghĩ bụng: Chắc mình lầm.


Bạn anh chen vô: “Ăng-lê kêu nó là gì, biết không?” Cái kiểu dạy tiếng Anh thực dụng kiếm cơm bấy lâu như anh không giúp ích ở đây. Anh muốn bắt chước lối nói các cô đương thời: “Biết chết liền!” Nhưng cười trừ. Bạn đáp luôn: “Oyster herb, hay là oyster plant.” Như thói thường những kẻ muốn gỡ thể diện, anh vớt vát: “À, oyster là con sò. Mà lá mọc chỉa lên thế kia, có giống con sò, con trai đâu?”
Bạn bước ra bồn kiểng, săm soi một lúc rồi trở lại bàn với đoạn kiểng ngắn đã trổ bông. Mấy bông be bé, trắng muốt, mọc ở nách lá, có hai lá màu tía úp bên ngoài, như hai miếng mo. Tưởng tượng thêm chút nữa thì thấy giống hai vỏ sò.
Con mọt sách thủng thẳng nói: “Giống này nghe đâu tận bên Trung Mỹ. Tên khoa học là Rhoeo-spathacea. Cũng là vị thuốc. Ông bà mình hồi xưa kêu là bông lão bạng. Lão bạng là con trai già. Trai già tuổi thì cho ngọc, nên sách bảo ‘Lão bạng sanh châu’. Ông xem mấy cái bông trắng có giống hột ngọc trai ngậm giữa hai lớp vỏ tím đỏ không?”
Anh chợt nhớ, bèn phụ họa: “Người già rồi mới có con nối dõi cũng là lão bạng sanh châu.” Ông từ cười hà hà: “Đúng quá! Nhưng… già cu ky một thân như tôi sao dám mong ước lão bạng sanh châu. Tôi thích tên lẻ bạn hơn. Nó lãng mạn và hợp với tôi hơn.”
24-12-2008

29. LỜI QUẠT Ý TRANH
Tranh quạt là tranh vẽ trên quạt xếp, nan tre, giấy bồi dày dặn. Có khi dùng lụa thay giấy. Quạt vẽ tranh thường khá lớn. Khi xếp lại, từ gờ bìa giấy đến chót đuôi nan nhiều cái dài hơn tám tấc. Như vậy, lúc xòe ra hết, treo trên tường để trang trí, quạt mở thành một vòng cung với đường kính hơn thước rưỡi.
Đề tài tranh quạt có thể mang dáng dấp Nhật Bản, nhưng hầu hết vẫn noi theo truyền thống thủy mặc Trung Hoa: mẫu đơn, cúc đào, mai trúc, tùng hạc, đàn ngựa... Có khi là phong cảnh: non núi, suối khe, điểm xuyết mái chùa nhỏ cong cong... Tranh quạt do người Việt làm hiện nay có chút biến tấu: thôn quê Việt Nam hoặc một thắng cảnh trên ba miền đất nước. Tranh quạt còn kèm thêm vài nét chữ Nho viết thảo và triện son. Thư, họa, ấn xưa nay vẫn là ba người bạn đồng hành.
Họa phẩm trên quạt ngoài công dụng trang trí lại còn là một lời chúc. Vẽ quả đào, ngụ ý chúc trường thọ; có câu Đào hiến thiên xuân (đào đem tặng, tăng thêm ngàn tuổi). Vẽ trái lựu đã bóc một bên vỏ, lộ ra nhiều hạt nhỏ, là chúc gia tộc đông con nhiều cháu nối dòng, do câu Lựu khai bách tử (lựu nở trăm hạt) và bách tử hàm nghĩa trăm con. Vẽ cành tùng và chim hạc, cũng là chúc thọ, vì tùng và hạc đều sống lâu (Tùng hạc diên niên: tùng hạc kéo dài tuổi). Vẽ hoa mẫu đơn tượng trưng phú quý, hoa cúc, hoa sen tượng trưng cho bền vững, lâu dài. Vẽ cá là chúc dư dật, sung túc vì ngư (cá) và dư (dư dật) đều đọc là dủy [yú]...
Treo tranh quạt còn nhằm một ẩn ý sâu sắc. Tiếng Hán, quạt là phiến, giọng Bắc Kinh đọc là sán [shàn], đồng âm với từ thiện (thiện hảo, tốt lành). Treo quạt trong nhà là mong ước cho mình mọi sự tốt lành. Tặng ai tranh quạt là cầu chúc gia đình người ấy những điều thiện hảo.
08-01-1999

30. MÂM CƠM GIA ĐÌNH ẢO
Ngoài bát tuần, lẻ loi từ ngày bạn đời khuất bóng, con cái tứ tán, bữa ăn quạnh quẽ của ông lão Harvey Bumpus ở thành phố Chicago luôn sơ sài, chỉ qua quít cho xong. Tưởng rằng ông chẳng còn sự chọn lựa nào khác hơn, thế nhưng mới đây cánh tay công nghệ cao đã vươn dài hơn, vói xa hơn, để chạm tới tận những khoảng trống vắng đời riêng của không ít người cùng hoàn cảnh xế chiều đơn chiếc như ông.
Với tên gọi “Bữa cơm tối gia đình ảo”, sản phẩm của công ty Accenture bên Mỹ không che đậy tham vọng kiếm tiền bằng cách kinh doanh nỗi cô đơn của những người già lẻ bóng. Công ty dùng loa, camera, và màn hình rộng để giúp hai người ăn cơm tối một mình ở hai nơi xa tít vẫn có thể nhìn thấy nhau, trò chuyện với nhau như thể đang đối diện cận kề và cùng sẻ chia một mâm cơm gia đình ấm cúng.
Trên trang báo khổ lớn, mẩu tin ấy dẫu có kèm ảnh minh họa của hãng tin AP chỉ chiếm một góc nhỏ khiêm tốn, rất dễ bị lẩn khuất giữa những bản tin nhiều cột chứa mấy con số tổng kết thành tựu và chỉ tiêu kế hoạch về mức tăng trưởng kinh tế. Phải, những ngày này thời sự luôn nhắc tới tăng trưởng, tới GDP, tới những số tiền triệu hay tỷ Mỹ kim rất đỗi hoành tráng. Âu cũng là lẽ thường trong mọi nỗ lực thoát nghèo của bất kỳ xã hội nào.
Ừ, rồi thì dân mình sẽ giàu lên, nhanh hay chậm. Giàu bằng một tỷ lệ nào đó so với cái lãnh thổ mà Accenture đang đặt đại bản doanh. Và bấy giờ những tâm hồn cô đơn sẽ dùng của cải sung túc để mua một chút hạnh phúc hư ảo nhằm đánh lừa nỗi trống trải có thật. Hình ảnh ấy chỉ mới là tưởng tượng mà sao mỉa mai quá.
Không thấy ai bận tâm đặt ra một chỉ tiêu hạnh phúc bền vững cho cuộc sống con người nhỉ? Bởi lẽ hạnh phúc chỉ đúng nghĩa là hạnh phúc khi nào nó ở ngoài tầm tay của mình chăng? Ta hoặc đuổi bắt nó, hoặc nuối tiếc nó chứ không thể sở hữu nó, nên cũng chả cần đặt chỉ tiêu, lên kế hoạch làm gì?
Anh lẩn thẩn tự hỏi, bàn tay lơ đãng buông tờ báo, nhưng không buông được chút gì đó như băn khoăn, như bất ổn vừa gợn trong lòng.

04-01-2007