Thứ Ba, 25 tháng 4, 2017

8 TRÀ KHUYA (MỎNG MẢNH TƠ TRỜI)

51. TRÀ KHUYA
Nhiều năm rồi anh mới ghé thăm bạn cũ, nhân chuyến đi tỉnh công tác. Bạn giữ chơi một đêm, thủng thẳng ôn chuyện cũ ngày qua, hỏi han việc bấy lâu không gặp, đủ thứ đầu Ngô mình Sở và thoắt cái mà đã khuya. Bạn đứng dậy, bảo anh cứ tự nhiên, rồi đi vào. Một lát, ngửi hương trầm phảng phất, anh mỉm cười, biết bạn đang tập thiền.
Trong đêm thị xã tĩnh mịch dưng không anh nghĩ lan man. Thời khắc này, đâu đó ở thành phố lớn quen thuộc của anh, đâu đó ở những chốn nào khác, thế gian đang trôi theo nhịp sống riêng tư. Đây đang là lúc cho người này êm đềm giấc ngủ, cho người kia nghiêng ngửa cuộc vui, cho người khác những trở trăn toan tính, những âm mưu sát phạt... Thế nhưng đây cũng đang là lúc có những người như bạn anh, không thức cũng không ngủ, ngồi yên theo một hơi thở vô rồi một hơi thở ra, lặng lẽ trên hành trình đi tìm một nhịp điệu khác.
Còn lại một mình với ấm trà nguội, âm thầm trong bóng tối trên bộ ván ngựa kê nơi hàng hiên, ngó mông ra màn đêm ở khoảnh sân nhỏ trước mặt, anh có cảm giác như vừa đang ở trong phòng mà cũng vừa ở ngoài trời. Một thứ cảm giác mường tượng như đang được nhòa lẫn, hòa quyện. Anh nhận ra não cân mình trong suốt và tỉnh táo đến lạ. Chẳng rõ bởi trà khuya hay tại vì hương dạ hợp hoa ngoài sân thoang thoảng theo gió trộn vào mùi trầm thơm ấm.
13-5-1999

 

52. TRANH MÈO

Tranh dân gian Việt Nam vẽ đám cưới chuột hình như ngụ ý đồng hóa con mèo với tên quan tham đang nhận lễ vật được nhà chuột cống nạp như một thứ tiền mãi lộ.
Người Hoa cũng có định kiến rằng mèo liên quan với những cái xui xẻo, xấu xa. Chẳng hạn, gặp đàn bà ăn mặc hơi chải chuốt quá, bộ tịch có vẻ lả lơi, như để rù quến đàn ông, người Hoa bảo đấy là hắc miêu (mèo đen).
Thế mà con mèo lại là một đề tài quen thuộc trong tranh thủy mặc truyền thống của họa sĩ người Hoa. Người ta mừng tặng nhau tranh vẽ mèo, một hay nhiều con, có khi ngoài mèo còn kèm thêm các sinh vật, hoa cỏ khác nữa. Đây là nghệ thuật dùng một hình ảnh cụ thể (con vật, hoa cỏ...) để diễn tả một ý trừu tượng (lời cầu chúc tốt lành), dựa trên cơ sở những từ có âm đọc na ná nhau. Cách diễn đạt này cũng tương tự như vào ngày tết người Việt phương Nam bày dĩa trái cây gồm mảng cầu, dừa xiêm, đu đủ xoài, là muốn cầu vừa đủ xài. Nếu thêm chùm trái sung là muốn được sung túc.
Cũng bằng cách mượn tiếng đồng âm dị nghĩa, trong tranh thủy mặc người Hoa, vẽ cành trúc vì người Hoa đọc gần như trủ [zhú] nghe na ná như chúc (đọc như trú [zhù]). Con bướm (điệp, hồ điệp) đọc là ti-ẻ [dié] cũng giống chữ điệt. Mà điệt là người già thọ bảy mươi hay tám mươi tuổi. Con mèo (miêu) đọc là [mao] tương tự như chữ mạo (đọc là máo [mào]). Mạo là người già thọ tám mươi hay chín mươi tuổi. Vậy, tặng một tranh vẽ mèo bên khóm trúc là một lời chúc thọ; nếu vẽ thêm cánh bướm tức là gấp đôi lời chúc, mong người nhận tranh được sống cho tới ngoài cái ngưỡng cổ lai hy, thậm chí là bát tuần, cửu tuần nữa.
Nếu vẽ một đàn mèo, mèo mẹ mèo con quây quần tức ngụ ý chúc trường thọ, vui cảnh con đàn cháu đống đề huề.
Con cá (ngư) đọc là dủy [yú] giống y như chữ là dư dật. Vậy tranh mèo rình bắt cá, mèo rình cá lội là ngụ ý chúc được trường thọ trong cảnh sung túc, dư dật.
Ngoài ra còn dùng ý biểu tượng. Thí dụ, hoa mẫu đơn là biểu tượng của phú quý. Do đó, tranh mèo kèm hoa mẫu đơn là lời cầu chúc luôn luôn được sống lâu trong cảnh phú quý.
30-12-1998

53. TUỔI THƠ HOÀI NIỆM
Gởi Lê Ký Thương


Anh ghé phòng tranh của ông bạn họa sĩ quê ở Nha Trang. Hai mươi bức sơn dầu. Những nhát cọ khỏe khoắn và những gam màu tươi sáng, rực rỡ đang hiện hình từng kỷ niệm của một tuổi thơ xa hun hút trong nỗi nhớ đồng quê ngày cũ.
Tuổi thơ nông thôn là ngày tháng gần gũi thiên nhiên: con mèo, con chó, tàu lá chuối, mụt măng tre, cái mo cau... Thiên nhiên là môi trường vui chơi và cũng là người cung cấp phương tiện vui chơi. Chiếc lá có thể quấn làm kèn kêu te te giữa bờ môi thơ dại, hoặc kết thành mão cho hoàng tử bé đăng quang, ngất ngưỡng trên vòng tay làm kiệu của hai bạn nhỏ, hoặc làm vương miện cho nhà vua tí hon chễm chệ trên ngai và tên lính hầu đứng kề bên chỉ có cái vỏ bưởi úp lên đầu làm nón.
Hoàn cảnh thiếu thốn, trẻ con sẵn gì chơi nấy. Tiện được con vụ liền chơi con vụ. Chẳng có món gì thì vạch ô trên đất mà nhảy lò cò. Có bạn thì rủ nhảy cừu hay chơi trốn tìm. Thui thủi một mình thì quậy nước xà bông thổi bong bóng lên trời cũng đủ vui rồi.
Xem tranh bạn, anh chợt nghĩ tới Satoshi Tajiri. Khi tuổi thơ Phù Tang bị đô thị hóa thì con dế, cào cào, châu chấu, nòng nọc, và các côn trùng nhỏ bé khác sống ngoài đồng ruộng, ao hồ... không còn là niềm hạnh phúc đơn sơ trong lòng hai bàn tay non nớt khum khum úp giữ. Tajiri bèn sáng tạo trò chơi điện tử Pokémon (1996) để bù đắp cho một thiên nhiên đánh mất.
Những trò chơi tuổi thơ dân dã Việt Nam cũng đang dần dần biến mất trước dòng chảy cuộc sống thành thị. Sẽ đến một lúc chúng chỉ còn phảng phất trong ký ức một số người già hoặc tình cờ sót lại đâu đó trên vài trang sách xa xưa cũ kỹ.
Bạn anh đang cố giữ lại phần nào hình ảnh đã qua. Vẽ cho đỡ nhớ, như bạn anh thú nhận.
09-7-2001

54. VĂN HÓA INTERNET
Câu chuyện lan man bên bàn cà phê buổi sáng trong hẻm không hiểu loanh quanh thế nào lại dẫn tới Internet. Ông bạn già ngao ngán: “Lắm lúc Internet cũng phiền lòng lắm!” Anh chưa hiểu, nhưng im lặng vì biết tính bạn. Trong khi chờ giải thích, anh có dịp nhìn kỹ hơn mái tóc hoa râm của ông giáo sắp nghỉ hưu, nhận ra vẻ mặt thiếu ngủ, mệt mỏi vì quen thức khuya đọc sách hoặc “viết lách vớ vẩn”, như cách ông tự thú.
Thì ra là việc mấy bài ông viết gần đây được ai đó “phát tâm” đưa lên mạng. Chẳng qua ông hay gởi bài đăng báo, nói rằng để có chút nhuận bút bù đắp phần nào khoản tiền khá lớn thường xuyên bỏ ra mua sách báo các loại. Kỹ tính và mô phạm, ông chịu khó viết cẩn thận, dẫu chỉ là một mẩu báo nhỏ. Từ điển lúc nào cũng sẵn vài quyển dày cộm vừa tầm tay. Chính tả, câu cú, chấm phết hầu như luôn luôn đâu ra đó. Thế mà người ta gõ lại bài của ông thường sai be bét, lắm lỗi còn khiến câu văn ngô nghê, chả ra làm sao. Cũng bởi tờ báo ông thường gởi bài chưa có online.
Anh an ủi bạn, theo kiểu AQ: Thì bài mình có hay bà con mới quăng lên mạng. Coi như mình thắng lợi tinh thần đi. Mà sao anh không thử e-mail cho admin của trang web ấy?
Ông bạn than thở: “Có lần họ tự ý sửa chữa bài tôi mấy chỗ, lại thấy cuối trang ghi tên người gõ bài, người đăng bài… bằng những nickname nghe kỳ dị lắm. Tôi thử ‘meo’ cho họ, và được trả lời rằng họ có toàn quyền biên tập không cần xin phép.”
Anh biết bạn mình không là trường hợp duy nhất. Ngày nay, lập trang web, làm blog quá dễ và, giống như một cám dỗ, đang thu hút đông đảo nhiều giới, nhất là sinh viên, học sinh. Các bạn trẻ rất giàu tri thức, sớm thành thục kỹ năng của công nghệ thông tin hiện đại, nhưng dường như không mấy ai được trang bị văn hóa Internet. Thế nên lắm khi họ luộc bài của người khác, quên ghi tên tác giả, mà chỉ nhớ ghi cẩn thận là “được post bởi…” và “được sửa bởi…”.
Trong chương trình dạy tin học, có nên bổ sung thêm một đôi điều nho nhỏ về văn hóa Internet không nhỉ?
16-9-2006

55. VẪN MÃI LÀ THỬ BÚT
Gởi Thân Trọng Minh


Tuổi mười lăm, cậu học trò xứ Huế và ba bạn đồng trang lứa cùng làm tờ báo viết tay trong một thôn làng. Qua tuổi đôi mươi, nợ nam nhi trải trang giữa mùa chinh chiến. Rồi làm thầy thuốc, những lúc tạm cởi blouse để vọc sắc giỡn màu trên khung vải vuông vắn. Sang buổi thư nhàn, hết ngẫu hứng với tượng gốm lại thả cho tâm ý phóng túng theo đường bút lông đậm nhạt nét mực nho… Kể từ ngày anh cất bước dạo chơi, đến nay đã năm mươi năm.
Năm mươi năm. Một thời gian quá đủ để kinh qua mấy lần biến thiên của mảnh đời riêng và bao phen ảo hóa của cõi đời chung. Trong nửa thế kỷ trải nghiệm ấy, con người tài hoa vẫn chẳng nhạt lòng văn chương hay phai duyên chữ nghĩa. Làm thơ, biên kịch, viết truyện, ra báo. Lúc quay rô-nê-ô, khi đem in ấn, hoặc chỉ là độc bản viết tay.
Năm mươi năm. Một thời gian quá thừa để cho bản thảo cái mất cái còn, cái trong tầm tay, cái ngoài viễn xứ khi theo chân văn hữu tha hương. Thế rồi bè bạn cũ và người thân yêu của anh bảo nhau lục tìm kết tập lại. Những con người không còn trẻ nữa với tuế nguyệt mà lòng vẫn tươi trẻ với tình văn rủ nhau gõ phím dàn trang, sắp xếp con chữ, chèn đặt mẩu tranh. Nguyên vẹn đam mê như một thời đam mê đã xa lăng lắc. Cuối cùng, nhờ các phương tiện sao in của công nghệ kỹ thuật số, những cuốn sách xuýt xoát cỡ A5 dày dặn, xinh xắn hình thành. Và anh gởi tôi một quyển.
Trên tay tôi món quà của anh không chỉ là một hòa điệu giữa thủ công và hiện đại. Đó còn là một hòa điệu của tình bạn bè các anh chứa chan từ thuở. Các bạn anh không khó đem in offset với danh tiếng một nhà xuất bản thân quen. Nhưng anh và các bạn chọn nẻo đi khác, bởi lẽ tâm ý trước sau nào phải đâu mang trao đại chúng. Dò theo hàng hàng con chữ trên từng trang văn, tôi bước vào cùng anh, bắt gặp những kỷ niệm ăm ắp, những day dứt nỗi niềm, những băn khoăn trăn trở… hoặc nối tiếp nhau hoặc xen kẽ nhau lần lượt tái hiện. Thỉnh thoảng đâu đó rải rác vài cái tên đã sớm trở thành thiên cổ.
Gấp sách lại, tôi ngắm cái bìa đẹp in tranh tĩnh vật do anh vẽ. Một cánh chuồn lãng tử ngẫu nhĩ đáp xuống bình hoa xanh bên cốc rượu đỏ. Đáng lưu ý hơn có lẽ là hai chữ Thử Bút anh chọn làm nhan đề… Năm mươi năm đánh bạn cùng văn chương nhưng sau rốt vẫn mãi là thử bút. Cuộc chơi của cánh chuồn mỏng manh phải chăng đáng yêu bởi thế?
28-9-2007

 

56. VỀ QUÊ

Anh du học bên Tây rồi ở lại lập nghiệp, ba mươi năm dư không tìm dịp nào về quê. Lúc sau này, nhờ có Internet với đường truyền ADSL, cài đặt skype, gắn thêm camera, thỉnh thoảng cuối tuần anh hẹn với bên nhà cùng mở computer để hàn huyên. Có tiếng nói, có hình ảnh, nên cũng tạm gọi được là gần gụi. Cậu em một hôm nhắc: Ba má bây giờ như chuối chín, ai biết rụng đầu hôm hay sớm mai. Anh cho các cháu về thăm ông bà nội một lần. Đừng để sau này hối thì đã trễ.
Giọng cậu em chẳng phải trách móc, nhưng anh chợt nghe lòng xốn xang, ray rứt. Điều đơn giản ấy lâu nay anh không nghĩ tới, có lẽ vì quá bận mưu sinh và vì một ngàn lẻ một lý do rất có lý. Ừ, thì về. Anh nghe tiếng mình hứa nhưng mơ hồ cảm thấy cậu em không có biểu lộ gì vui, như thể không tin lời anh. Chắc tại cái giọng của mình thiếu nhiệt tình. Thôi kệ, trước sau thì mình cũng về mà. Anh tự nhủ thế.
Lần lữa mãi, rốt cuộc anh cũng phải về một mình. Lũ trẻ còn đang giữa học kỳ, vợ anh phải ở lại lo cho sắp nhỏ. Anh về quá lật đật không kịp chuẩn bị gì hết, sau cú điện thoại từ bên nhà gọi sang vào giữa đêm.
Gặp lại anh, ông cụ ít hẳn lời, có vẻ hờn. Cậu em thì bận rộn với đại sự, tất bật lo toan trong ngoài. Xa nhà quá lâu, ông trưởng nam bỗng trở thành lóng cóng, chân tay dư thừa, cái gì cũng lạ lẫm, lúng túng. Nhân một lúc thuận tiện, anh nói khẽ với em dâu: “Thôi thì tốn phí cho má hết bao nhiêu chú thím cứ để cho anh.” Cô em dâu kéo mảnh khăn trắng chậm nước mắt, sụt sịt: “Chắc không cần anh à. Bao nhiêu tiền anh gởi về lâu nay ba má có đụng tới xu nào đâu. Má nói ba má thiếu anh chứ không thiếu tiền.”
25-4-2006

57. VUI NHỎ ĐẦU XUÂN
Con gái đi học ngày tất niên, hẹn giờ để bố đến đón về. Buổi chiều, anh ghé trường, chỉ có anh và hai chú bảo vệ kiêm luôn việc giữ xe. Đã quen mặt nhau, anh mỉm cười gật đầu chào, và nhận lại nụ cười kèm câu nói cụt lủn đáp lễ: “Sớm thế!”
Chờ con tan học, trong lúc bước loanh quanh phía ngoài sân trường, anh nhác thấy nơi bồn kiểng gần lối ra vào trồng một khóm lá, nom hao hao như thứ rau dền đỏ tía ở nhà hay nấu canh hoặc luộc ăn. Có một nhánh ai làm gãy lặc lìa từ bao giờ, gục đầu chúi hẳn xuống nền tráng xi măng. Dốt thực vật, chẳng biết giống kiểng tên gì, nhưng thấy hay hay, anh bèn bước tới ngắt ngay chỗ đã gãy sẵn, rồi bỏ vào cái giỏ gắn ở đầu xe Honda.
Về tới nhà, anh lựa một chậu đất nhỏ, trồng lại độc một nhánh chơ vơ. Ngày qua, cái nhánh cứ héo dần, teo tóp lại, cho dù phân nước khá tốt. Gần sang năm mới, ra dọn dẹp góc vườn nhỏ, anh nản lòng nhìn cọng kiểng héo đã ngả màu thâm thâm, nằm oặt mình vắt qua miệng chậu, rũ rượi.
Mang máng trong đầu cái tín niệm dân gian truyền lưu bấy lâu, rằng đón năm mới phải dẹp đi cái gì xấu xí, anh ngao ngán, đã toan nhón tay nhổ bỏ, nhưng rồi lại thôi. Chẳng hiểu tại sao. Mấy ngày cận tết, bận rộn sắp xếp lại nhà cửa, anh quên bẵng cọng kiểng héo tàn.
Sáng sớm mùng một, ra sân để xem chậu mai có còn đủ đầy hoa vàng tưng bừng hay là trong đêm đã linh lạc tiêu điều, tình cờ anh nhìn thấy cái nhánh úa rũ hôm kia đã âm thầm phục sinh từ lúc nào. Như tràn sức sống, cọng kiểng ngỏng cao lên, làn da đỏ tía căng bóng, như mọng nước. Mấy cánh lá con con xòe bung ra tươi tắn, chỉ trừ vài chỏm héo khô ở đầu lá thì không sao hồi xuân được nữa.
Anh ngạc nhiên, sung sướng. Một chậu nhỏ, một nhánh kiểng lẻ loi, nhưng ẩn tàng nơi đó sự kỳ diệu của thiên nhiên. Tự sâu kín trong lòng, anh chợt nhận ra mình đang ngấm ngầm hạnh phúc vì đã cải tử hoàn sinh cho một mạng sống cỏ cây bé mọn. Phải chăng vì thế mà, đối với anh, nhánh kiểng tầm thường kia dưng không lại mang mặc một giá trị hơn hẳn những chậu hoa kiểng đắt tiền được chăm chút công phu để bày bán ở các nhà vườn?
19-02-2007

58. XIN NHẸ TAY
KHÉP GIÙM CÁNH CỬA
Ghé nhà xuất bản nhận nhuận bút và mười cuốn sách biếu, anh thấy tiếc khi nhìn góc dưới trên bìa sau hơi lem luốc. Ông bạn họa sĩ đã bỏ công chăm chút dung mạo đứa con tinh thần của anh chắc cũng không vui. Có lẽ hiểu ý, cô nhân viên nhà xuất bản nói như phân trần: “Luật xuất bản buộc phải in giá bán lên bìa bốn. Sau khi cán màng rồi mới phát hiện còn sót giá bìa, bọn em đành phải in lụa chồng lên…”
Sách ra được hơn nửa năm, có người nơi xa viết thư nhờ anh gởi về cho một cuốn, vì ở chỗ họ không thấy bán. Trong nhà đã hết sách, anh bèn ra cửa hàng tìm, và chưng hửng khi thấy sách được in nối bản từ thuở nào, nhưng ngày nộp lưu chiểu trên trang thủ tục cuối sách vẫn y chang như lần in trước. Anh phát hiện được chẳng qua nhờ thấy trên bìa bốn giá tiền được in offset đỏ chót, sắc sảo chứ không phải màu đen nhòe nhoẹt của lần in lụa.
Khi tiếp anh như đã hẹn, ông giám đốc nhà xuất bản rất nhã nhặn mà vẫn quả quyết cam đoan rằng ở chỗ của ông không bao giờ cho phép bất kỳ ai làm ăn gian dối, và hơn thế nữa còn phải biết đối xử với người cầm bút cho đúng mực văn hóa. Anh đành phải trưng hai bản in để ông thấy anh không nói ngoa. Mặt liền đỏ gay, ông mau mắn xin lỗi là lính tráng của ông làm ăn tắc trách, không kịp báo tin cho anh đến nhận nhuận bút và sách biếu của lần tái bản. Ông hứa sẽ bảo họ lập tức sửa sai và mời anh trở lại vào đầu tuần sau. Rồi ông tiễn anh ra cửa.
Anh chưa kịp bước đi thì bỗng giật nảy mình. Sau lưng anh, cánh cửa nhôm của phòng ông giám đốc vừa bị rập mạnh lại, âm thanh vang lên khô khốc, nhói tai. Anh đứng lặng bên ngoài mà buồn, buồn còn hơn cả khi tình cờ biết được sách mình bị âm thầm in lại.
Lủi thủi ra về, anh ngao ngán thầm hỏi: Sao không nhẹ tay khép giùm cánh cửa?
29-9-2006

 

59. Ý HOA NGÀY TẾT

Từ lâu đời, hoa là một phần hầu như không thiếu được trong ngày Tết. Cũng từ xa xưa đã hình thành các làng hoa, để mỗi độ cuối năm lại hẹn nhau phiên chợ hoa xuân. Từ miệt vườn đồng bằng sông Cửu Long, mượn con nước nhờ đưa về thị tứ, những chuyến thuyền chở chuyên vẻ tươi màu thắm cho đời lúc neo tạm bến bờ, khi nối nhau xuôi chảy, và trường giang đơn điệu tháng ngày bỗng hóa thân làm dòng hương sắc khoe hồng phô lục.
Đem tiền đổi lấy hoa về, phải đâu xa xỉ, mà là một phong cách sinh hoạt, muốn làm đẹp tinh thần. Cảnh nhà dù thanh bạch đến mấy, ít lắm cũng phải có vài cành hoa trên bàn thờ ông bà, tỏ lòng hiếu kính. Dư dật thì sắm sửa ít nhiều chậu hoa tươi bày biện quanh phòng khách, cạnh lối đi... Có hoa, cửa nhà khoác lên dáng vẻ khác hơn ngày thường, không khí mang hơi hướm tết hơn, và nội thất thêm thanh lịch, tao nhã. Không những thế, hoa thắm sắc tươi, tỏa thơm dìu dịu, như trả con người về với một góc thiên nhiên thu nhỏ trong buổi tạm thư nhàn. Rõ ràng hoa là một nhu cầu thẩm mỹ, góp thêm hương vị cuộc sống.
Có người yêu hoa, chưng loại hoa này vì muốn tìm ở tên hoa một liên tưởng, gắn với nguyện vọng hay ước mơ hoài bão của mình. Chơi lan là ưa nếp vương giả, đài các. Nâng cánh phù dung là mộng cảnh vinh hoa, cầu hưởng phúc lộc; chẳng khác chi khóm mẫu đơn hàm nghĩa phú quý, danh giá. Cúc và sen mang ý lâu dài, trường cữu. Vạn thọ hay đào là khát vọng sống lâu cùng tuế nguyệt. Năm cánh mai vàng hay giò thủy tiên trắng nuột là biểu tượng cho may mắn, phúc lành. Còn hoa bách hợp là mong mỏi chút con trai cho vui ngày tháng...
Yêu hoa, có người tìm loại này mà hờ hững lảng lơ với bao loài khác. Có thể chỉ vì cốt tìm một sắc thái riêng nơi thảo mộc lá cành, vì trót quyến luyến một làn hương đặc thù gợi nhớ, mà cũng có khi hoa ấy ẩn náu chút kỷ niệm riêng tư, thấy hoa như thấy người xưa thuở trước.
Hoa muôn sắc vạn hương, mà trong tình người hoa cũng trăm nghĩa ngàn ý kín đáo vậy.
Tháng 12-2000

 

60. ZICUDO

Anh có tật gặp sách báo nào cũng muốn liếc qua, hễ thích thì đọc miết. Thuở mới quen, thấy anh cứ mải đọc mảnh giấy gói mà quên nhai bánh mì, chị cười gọi trêu là chàng Zicudo – gì cũng đọc.
Chung sống bên nhau đủ cả nếp tẻ rồi, chị phát hiện thêm Zicudo còn tạo ra tác dụng phụ. Số là anh mua thường xuyên ba tờ tuần báo: hai tờ báo đời phát hành Thứ Bảy, Chủ Nhật; thêm tờ báo đạo ra ngày Thứ Sáu. Báo đọc xong người ta thường bỏ đi, nếu gom góp cũng chỉ để cân ve chai. Riêng anh cứ tỉ mẩn xếp đủ số theo thứ tự, hết ba tháng lại cột thành từng chồng riêng biệt rồi mang đi đóng bộ. Quý nào mấy bố con đọc báo xong lỡ làm thất lạc, anh lại ghé mấy sạp báo cũ gần nhà nhờ tìm giúp số bị thiếu. Để bổ sung cho đủ, đôi khi anh phải tới tận tòa soạn mới giải quyết được.
Nghĩ mà coi, các tuần báo xuýt xoát khổ A4, mỗi quý ba bộ, mỗi bộ dày chừng ba phân. Mỗi năm lưu trữ cả ba tuần báo được mười hai bộ, dày khoảng ba tấc rưỡi. Và hơn hai mươi năm qua cứ đều đặn như thế. Các tập báo đóng bộ nằm oằn trĩu kệ, san sát nhau dài đến sáu, bảy mét. Hiếm khi thấy anh lục báo cũ đọc lại, nhưng cứ cần mẫn giữ đủ bộ như thế. Chị bèn bổ sung một nghĩa mới cho Zicudo – gì cũng đóng (bộ).


Cháu gái chị học ngành báo chí, đang chuẩn bị làm luận văn tốt nghiệp. Chẳng biết cô sinh viên ấy viết đề tài gì nhưng khi anh cho phép tùy nghi khai thác mấy mét báo đóng bộ thì mặt cô hớn hở y như vừa rút thăm trúng được quà khuyến mãi.
Một hôm cô cháu bày tỏ lòng chân thành cảm ơn hai bác giúp đỡ tài liệu nghiên cứu. Chị suýt phì cười khi thấy anh nghiêm nghị bảo: “Lẽ ra bác mới là người cảm ơn cháu. Nhờ cháu mà bác gái thấy Zicudo cũng có ích cho người khác.”

10-5-2006