19. Bệ phóng cho thanh niên vào đời
Vào năm 1975, nếu Tiến Sĩ Russell Mawby thiếu mắt xanh thì
thế giới đã không có thêm hai tổ chức nổi tiếng chắp cánh cho thanh niên vào
đời. Ông đã tin tưởng, mở rộng tấm lòng làm bệ phóng cho ước mơ một chàng trai
hai mươi tuổi bay cao và bay xa.
Xuất thân trong một gia đình nông dân trồng cây ăn trái ở
miền Tây bang Michigan, cha mẹ chỉ học hết lớp Tám, Mawby là đứa con đầu tiên
trong nhà tốt nghiệp đại học. Theo nghề làm vườn tại Viện Đại Học bang Michigan (nước Mỹ),
những mong sẽ trở thành người trồng cây ăn trái nối nghiệp mẹ cha, nào ngờ
Mawby trở thành giáo sư tiến sĩ thực thụ.
Năm 1964, giám đốc phụ trách bộ phận nông nghiệp của Quỹ
Kellogg ([1]) gọi điện mời Mawby thay ông đảm trách chức vụ này. Sau đó Mawby lần lượt làm
phó chủ tịch phụ trách các chương trình tài trợ, rồi làm chủ tịch hội đồng quản trị kiêm tổng giám đốc hai mươi
lăm năm. Nghỉ hưu (1995), Mawby tiếp tục làm ủy viên hội đồng quản trị năm năm
và làm ủy viên danh dự thêm ba năm. Thuở ông mới gia nhập, mỗi năm Quỹ
tài trợ khoảng mười hai triệu Mỹ kim. Lúc ông nghỉ hưu, mỗi năm Quỹ tài trợ gần
hai trăm sáu mươi triệu Mỹ kim. Năm 1975, đang làm chủ tịch kiêm tổng giám đốc
Quỹ Kellogg (một trong năm quỹ lớn nhất nước Mỹ), ông nhận được thư của Rick
Little, hai mươi tuổi, sinh viên năm thứ hai.
Lớn
lên ở một thị trấn nhỏ thuộc bang Ohio ,
mẹ nát rượu, cha nghiện ma túy, nhưng Little đã quyết chí phấn đấu và vững tin
vào giá trị của chính mình. Không buông xuôi theo nghịch cảnh, anh vào được Đại
Học Anderson (bang Indiana ).
Năm mười chín tuổi, ngủ gục khi đang cầm lái từ trường Anderson về nhà, anh lao xe lên vệ đường, đâm
vào một thân cây. Gãy lưng, nằm bệnh viện sáu tháng, anh suy gẫm nhiều về bản
thân, chua xót nhận ra mười ba năm học hành chẳng hề giúp anh kỹ năng ứng phó
cuộc sống nhiều bất trắc, và anh không phải là kẻ duy nhất. Ra viện, anh về nhà
mới ba tuần thì mẹ lại tự tử bằng thuốc ngủ suýt chết.
Anh
biết nhà trường hầu như chẳng dạy được gì cho giới trẻ những kỹ năng thiết yếu
để giới trẻ sẵn sàng bước vào cuộc đời nhiều bất trắc. Bản thân anh có thể vượt
qua nghịch cảnh, nhưng còn biết bao thanh thiếu niên khác? Không lẽ để mặc họ
phải chịu hậu quả do lỗi của người lớn? Anh thấy rằng tuổi trẻ thất bại vì
thiếu một người lớn có trách nhiệm trợ giúp trong tình thương yêu, gắn bó. Anh sớm
định hình lý tưởng cải thiện hoàn cảnh
người trẻ bất hạnh vì lỗi của người lớn, giúp giới trẻ học được những phương
cách để vào đời và tồn tại. Anh quyết tâm kiếm tiền lập một tổ chức huấn
luyện các kỹ năng cần thiết giúp thanh thiếu niên gặp nghịch cảnh ứng phó với
đời.
Thoát chết
sau tai nạn xe hơi, phấn khích vì lý tưởng xây dựng một chương trình giáo dục
thanh thiếu niên theo cách riêng của mình để bổ túc những thiếu sót của hệ
thống nhà trường hiện hữu, sinh viên Little bỏ học, đích thân tới nhiều bang
phỏng vấn hơn hai ngàn học sinh ở một trăm hai mươi trường trung học. Anh chỉ
hỏi hai câu:
1. Nếu muốn
phát triển một chương trình học nhằm giúp em thích nghi cuộc sống hôm nay và
mai sau, theo em chương trình này cần có những gì?
2. Hãy kể ra
mười vấn đề hàng đầu em muốn giải quyết tốt đẹp ở nhà và tại trường.
Dù thành thị
hay nông thôn, con nhà giàu hay nhà nghèo, tất cả đều trả lời gần như giống
nhau, và cũng giống với kết quả nghiên cứu của Viện Quốc Gia Giáo Dục.([2]) Viện điều tra một ngàn
người ở độ tuổi ba mươi, thì có tám mươi bảy phần trăm than phiền trường trung
học chẳng trang bị được kỹ năng thiết yếu để họ giáp mặt cuộc sống xã hội. Họ
ao ước thuở nhỏ được học cách thiết lập các mối quan hệ tốt đẹp, cách làm cha
mẹ hiền, cách nuôi dạy con, cách biết lắng nghe, cách quản lý tiền bạc, cách
giải quyết xung đột, và quan trọng nhất chính là dạy cho họ hiểu rõ ý nghĩa
đích thực của cuộc sống là gì.
Về
câu hỏi thứ nhì, hai vấn đề hàng đầu là trẻ luôn cảm thấy lẻ loi, và ghét bỏ
chính mình. Kết quả này cũng phù hợp một nghiên cứu Little đọc được: Chín mươi
phần trăm trẻ mẫu giáo hài lòng về bản thân, nhưng lên lớp Sáu tỷ lệ này chỉ
còn mười phần trăm.
Để hoàn thành
cuộc phỏng vấn ấy Little phải ngủ bụi trong xe hai tháng. Chỉ có sáu mươi Mỹ
kim để sống, mỗi bữa ăn qua loa mấy miếng bánh lạt phết bơ đậu phọng, lắm hôm
nhịn đói. Kế tiếp, anh tiếp xúc các nhà giáo dục hàng đầu của Mỹ, các bậc thầy
trong nghề tư vấn và tâm lý, xin họ ủng hộ. Họ đều bàn ra: “Cậu còn trẻ quá!
Hãy trở lại đại học, lấy xong bằng cử nhân trước khi đeo đuổi ước mơ này.”
Không
nản chí, anh liên tiếp tìm tới các quỹ tài trợ. Để có tiền đeo đuổi lý tưởng,
anh bán xe, vay bạn bè thêm ba mươi hai ngàn Mỹ kim. Suốt một năm anh khổ nhọc
làm việc từ tinh mơ cho tới khuya, cứ viết đi viết lại các dự án sau mỗi lần bị
nhà tài trợ từ chối. Một nhà giáo đã nghỉ dạy để theo giúp anh viết dự án đành
phải than với anh: “Tôi sạch tiền rồi, lại phải nuôi vợ con. Cậu chỉ còn một cơ
hội chót, nếu vẫn thất bại, tôi lập tức quay về với bục giảng.”
Lúc ấy chưa biết gì về các quỹ tài trợ, Little kinh ngạc nghe
nói có những tổ chức chuyên đem tiền giúp người khác. Lưng còn mang nẹp cố định
xương, đi đứng rất khổ sở, anh vẫn lập dự án và kiên nhẫn gõ cửa một trăm năm
mươi lăm quỹ khác nhau. Tất cả đều từ khước không chút do dự. Cuối cùng, gần
như tuyệt vọng, anh nghe nhắc đến Quỹ Kellogg do Tiến Sĩ Russell Mawby làm chủ
tịch.
Được cho cái hẹn, Little chỉ dám mong ngài chủ tịch danh giá
chiếu cố khoảng ba mươi phút thì đã ân huệ lắm rồi. Nhưng Tiến Sĩ Mawby trò
chuyện với anh suốt một trăm năm mươi phút. Anh trút cạn nỗi lòng, kể lể cảnh
nhà và sôi nổi trình bày mơ ước phát triển một chương trình giúp thanh thiếu
niên vào đời. Xong buổi phỏng vấn, Mawby mời anh ra ngoài ăn trưa. Ngang qua
một quầy kem, ông hỏi: “Cậu ăn chứ?”
Anh gật đầu. Bất ngờ trước thịnh tình của Mawby, anh vụng về
đón lấy cây kem quá mạnh tay, lớp vỏ bánh bể nát và kem sô-cô-la chảy trào
xuống mấy kẽ ngón tay. Mawby bật cười, lấy khăn giấy ở quầy kem giúi cho chàng
trai đỏ mặt sượng sùng. Anh than thầm: “Có cây kem cầm cũng chẳng nên thân thì
nói gì tới việc huấn luyện các kỹ năng giúp thanh thiếu niên vào đời!”
Hai tuần sau Mawby gọi điện báo tin: “Hội Đồng Quản Trị đã bỏ
phiếu bác bỏ năm mươi lăm ngàn Mỹ kim cậu đề nghị…”
Nước mắt Little trào ra. Hai năm lao tâm khổ trí, đã tan
thành mây khói. Đầu dây bên kia, Mawby thản nhiên nói tiếp: “Tuy nhiên, Hội
Đồng nhất trí tài trợ một trăm ba mươi ngàn Mỹ kim.”
Anh hoàn toàn bất ngờ, như thế là duyệt chi tăng hơn dự án
của anh bảy mươi lăm ngàn Mỹ kim. Bây giờ anh có thể cho phép mình bật khóc
ngon lành.
Thế
là cuối cùng anh được chấp nhận. Tổ chức Quest
International ra đời (1975), Rick Little làm chủ tịch kiêm tổng giám đốc
(1975-1989), huấn luyện hàng ngàn giáo viên và các nhà tư vấn, các giáo dục
viên dạy kỹ năng vào đời cho thanh thiếu niên theo phương châm 3T do anh đề ra: Thẩm định lại giá trị bản thân; Tinh
thần trách nhiệm; Tự trọng.([3])
Năm 2005 các
chương trình huấn luyện của Quest được dạy tại hơn ba mươi ngàn trường học ở
năm mươi bang nước Mỹ và bốn mươi quốc gia, mỗi năm có bốn triệu trẻ được đào
tạo. Vốn của Quest tăng lên hơn một trăm triệu Mỹ kim. Được Quỹ Kellogg tài trợ
thêm sáu mươi lăm triệu Mỹ kim (1989), Rick Little thành lập Quỹ Thanh Niên
Quốc Tế,([4]) do anh làm chủ tịch kiêm
tổng giám đốc (1990-2002). Năm 2005 Quỹ hoạt động ở hơn sáu mươi quốc gia, mỗi
năm đầu tư hơn một trăm ba mươi lăm triệu Mỹ kim vào hàng trăm dự án huấn luyện
kỹ năng vào đời, chăm sóc sức khỏe, tìm việc cho thanh niên vượt khó…
Rick Little
được Hội Đồng Các Quỹ Ở Mỹ ([5]) trao giải thưởng Robert
Scrivner (1997). Trước đó (1996), Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ([6]) ở thành phố Davos (Thụy
Sĩ) bầu chọn Rick Little là một trong các nhà lãnh tụ toàn cầu vì mai sau.([7])
Khi thôi làm chủ tịch kiêm tổng giám đốc Quỹ Thanh Niên Quốc Tế
(2002), Rick Little lần lượt lãnh đạo nhiều tổ chức tên tuổi khác để kết hợp
những doanh nhân hoạt động xã hội, những nhà tư tưởng lớn, những tổ chức tài
chính, những nhà giáo dục tâm huyết… Tất cả cùng nhau làm việc vì thanh thiếu
niên nghèo khó trên toàn thế giới. Theo
Rick Little, dù có làm nhiều hơn nữa cho thanh thiếu niên cũng chẳng bao giờ
đủ, và phải luôn đáp ứng cho lớp trẻ niềm hy vọng và lòng tin vào một ngày mai
tốt đẹp hơn.
21-6-2005
Huệ Khải