21. Tín dụng không thế chấp
Mohammad Yunus nhận học bổng Fullbright (1965) và lấy bằng
tiến sĩ kinh tế tại Viện Đại Học Vanderbilt (Mỹ). Đang dạy đại học tại bang Tennessee , ông được mời
về nước làm trưởng khoa Kinh Tế tại Viện Đại Học Chittagong (1972). Bấy giờ Bangladesh vừa độc lập (16-12-1971) sau hai mươi
bốn năm làm một tỉnh của Pakistan
(từ 1947).
Hồi hương, ông hy vọng tràn trề nhưng chỉ thấy đất nước trượt
nhanh xuống dốc. Nạn đói khủng khiếp năm 1974 phơi xác đồng bào ông khắp đường
phố. Đang dạy môn kinh tế phát triển, Giáo Sư Yunus chua xót nhận ra lý thuyết
hàn lâm trong giảng đường không giống cuộc sống bên ngoài. Ông quyết định học
lại kinh tế bằng cách cọ xát thực trạng xã hội và những mảnh đời nghèo đói.
Viện Đại Học Chittagong
lọt giữa các ngôi làng ở Đông Nam Bangladesh. Trút bỏ tư thế giáo sư tiến sĩ, ông
cuốc bộ từ trường vào làng trò chuyện với dân quê, tìm hiểu lý do vì sao họ
phải cam chịu nghèo khổ suốt đời này sang đời khác. Ông gặp một phụ nữ làm ghế
tre chỉ kiếm được hai xu sau khi quần quật cả ngày. Chị giãi bày: Thiếu vốn mua
tre, chị mượn tiền chủ cửa hàng ghế tre, thế nên y mua lại thành phẩm của chị
rẻ mạt, gần như ngang giá nguyên liệu.
Ông suy nghĩ: Nếu được giúp vốn, có thể tùy ý bán sản phẩm
cho chỗ nào cao giá, chị ấy khỏi phải lao động theo kiểu nô lệ. Ông nhờ sinh
viên đi khắp làng điều tra và sau một tuần lập được danh sách bốn mươi hai
người cùng hoàn cảnh như chị làm ghế. Chỉ cần một khoản taka (tiền Bangladesh )
tương đương ba mươi Mỹ kim thì bốn mươi hai người ấy khỏi bị bóc lột sức lao
động.
Móc túi lấy ba mươi Mỹ kim, ông định giao sinh viên chia cho
dân làng vay. Nhưng ông nghĩ lại: Những người bần cùng khác nếu cần tiền sẽ
không dám gặp ông, vì ông là giáo sư tiến sĩ, khoa trưởng một viện đại học. Vậy
phải có ngân hàng tín dụng cho người nghèo.
Ông tiếp xúc các chủ ngân hàng, nhưng hầu hết đều phì cười vì
những khoản vay quá nhỏ, tiền lãi không đủ bù đắp công sức và thủ tục giấy tờ
của ngân hàng. Ông làm đủ mọi cách để thuyết phục, tự nguyện bảo lãnh một khoản
tín dụng ba trăm Mỹ kim thử nghiệm và chứng minh là nợ đều hoàn trả đủ.
Tuy nhiên, vẫn không được ngân hàng nào chấp nhận sáng kiến,
ông bèn quyết định sẽ lập ngân hàng riêng để đích thân thực hiện mô hình tín
dụng cực nhỏ dành cho người nghèo. Ông nói: “…
một khi được trao cho khả năng kinh tế thì người nghèo là những chiến sĩ kiên
định nhất trên mặt trận giải quyết vấn đề dân số, chấm dứt nạn mù chữ, và sống
lành mạnh hơn, tốt đẹp hơn. Cuối cùng, khi những ai hoạch định chính sách nhận
thức được rằng người nghèo không phải là kẻ đứng ngoài, không phải là thù địch,
mà chính là bạn đối tác của mình, thì bấy giờ chúng ta sẽ tiến nhanh hơn nhiều
so với những gì đang làm hiện nay.” ([1])
Dự án ngân hàng Grameen ra đời tại làng Jobra , Bangladesh
(1976), trở thành ngân hàng chánh quy do một đạo luật đặc biệt của chánh phủ
(1983). Với tổng cộng 13.253 nhân viên, 1.417 chi nhánh, hoạt động ở 50.936
ngôi làng, Grameen do chính người nghèo vay nợ làm chủ (chiếm 94% cổ phần), nhà
nước chỉ có 6% cổ phần (số liệu năm 2005). Mô hình ngân hàng Grameen đã lan ra
hơn năm mươi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển.
Theo thống kê tháng 3-2005, ngân hàng Grameen có 4,35 triệu
khách hàng (phụ nữ chiếm 96%), và 55% gia đình vay tín dụng đã vượt qua ngưỡng
nghèo khổ. Tính từ năm 1976 tới 2004, bình quân mỗi tháng Grameen cho vay 39,48
triệu Mỹ kim.
Ngân hàng Grameen cho vay các khoản cực nhỏ không đòi thế
chấp, không yêu cầu người bảo lãnh, không buộc người vay ký các giấy tờ ràng
buộc pháp lý vì Giáo Sư Yunus không chủ trương kiện những người không hoàn nợ,
thế mà tỷ lệ thu hồi tín dụng là 98,89%.
Người cho vay bao giờ cũng muốn nắm đằng cán. Cái cán mà Giáo
Sư Yunus và ngân hàng Grameen nắm chắc trong nhiều thập niên qua chính là tấm
lòng đối với những dân quê nghèo khổ, những đồng bào bất hạnh của ông.
Nhà ở và học bổng cho
người nghèo
Theo thống kê tháng 7-2006, lực lượng lao động nông nghiệp
chiếm 63% số dân Bangladesh .
Năm 2004, số dân sống dưới mức nghèo đói là 45%. Vì thế, trong nhiều mục tiêu
quan tâm, Giáo Sư Yunus chú ý giúp dân nghèo có một mái nhà. Tín dụng nhà ở vì
thế đã sớm đi vào hoạt động. Riêng trong tháng 8-2006, dân nghèo đã vay của
Grameen 5,17 triệu Mỹ Kim cho khoản nhà ở.
Muốn giải quyết tận căn cơ nạn nghèo đói còn phải lo nâng cao
dân trí. Giáo Sư Yunus và ngân hàng Grameen vì thế đã lập quỹ cấp học bổng cho
người nghèo. Tính từ khi thành lập quỹ này cho tới năm 2006, ngân hàng Grameen
đã cấp 31.164 học bổng trị giá 0,39 triệu Mỹ kim (trong đó nữ
chiếm 18.269 người, trị giá 0,23 triệu
Mỹ kim). Ngoài ra, học bổng dành cho bậc đại học và sau đại học đã cấp cho
11.980 sinh viên, trị giá 4,9 triệu Mỹ kim (trong đó nữ chiếm 2.357 người, trị
giá 0,93 triệu Mỹ kim).
Giáo Sư Yunus và mô hình
Grameen tại Việt Nam
Năm 1993, Tổng Thư Ký APDC (Trung Tâm Phát Triển Châu Á - Thái Bình Dương) khuyến khích Việt Nam nên áp dụng
mô hình ngân hàng Grameen. Năm 1995, lần đầu tiên Giáo Sư Yunus đến Việt Nam . Sau đó, ông
trở lại vào tháng 5-2003 và tháng 6-2005. Quỹ Ủy Thác của Grameen (Grameen Trust) từng cho Việt Nam vay
21.000 Mỹ kim với lãi suất nhẹ để thực hiện mô hình ngân hàng Grameen và kèm
theo một điều ghi nhớ rằng nếu làm thành công thì Grameen Trust sẽ tặng lại cả
vốn lẫn lãi.
Giải Nobel Hòa Bình 2006
Thứ Sáu 13-10-2006
không phải là một ngày xấu. Những người nghèo trên khắp thế giới bấy lâu vẫn
mang ơn Giáo Sư Yunus và
hệ thống ngân hàng Grameen của ông cuối cùng đã thấy rằng Trời cao có mắt. Những người ngưỡng phục tấm lòng nhân ái, hành
động vị tha của vị giáo sư người Bangladesh cuối cùng đã mãn nguyện khi nghe
tin chính thức từ Ủy Ban Nobel Na Uy rằng Giáo Sư Yunus và hệ thống ngân hàng
Grameen do ông sáng lập đã được
chọn để cùng chia đôi giải thưởng Nobel Hòa Bình 2006.
Trong lịch sử hơn một
trăm năm của giải Nobel Hòa Bình (khởi đầu từ 1901), không phải lúc nào giải
thưởng này cũng có được tính
thuyết phục đối với công luận trên hoàn cầu. Tuy nhiên, năm 2006 thì khác hẳn.
Phải nói rằng những ai có công tâm và có biết đến sự nghiệp chống giặc nghèo
đói của Giáo Sư Yunus suốt từ 1976 tới nay đều tán thành quyết định đúng đắn
của Ủy Ban Nobel Na Uy.
Giải thưởng được chia đều cho cha đẻ của ngân
hàng Grameen và đứa con sáng giá của Giáo Sư Yunus. Điều ấy có nghĩa là những
người bấy lâu cộng sự với lý tưởng của ông cũng được đánh giá công trạng một cách xứng đáng. Không có họ, một
mình ông không thể nào trải rộng khắp tấm lòng của ông đến được với mọi ngõ ngách tối tăm của
dân nghèo trên thế giới. Ông và Grameen đã nỗ lực phi thường để “tạo nên những sự phát triển kinh tế và xã
hội từ tầng lớp dưới cùng” – đó là lời tuyên dương của Ủy Ban
Nobel Na Uy. Hòa bình bền vững không thể có được trừ phi số đông dân chúng tìm thấy những cách phá vỡ cảnh
đói nghèo. Ông và Grameen đã trao cho họ phương tiện đột phá thông qua hình
thức các khoản tín dụng cực nhỏ.
Năm 1974, Giáo Sư Yunus
đưa ra sáng kiến thành lập ở Bangladesh
các gram sarker tức là các chánh quyền làng xã với sự tham gia của nông
dân. Sáng kiến này thực sự thành công và năm 1980 được chánh phủ Bangladesh tiếp
thụ. Giáo sư còn khai sáng ra hệ thống nông trang hợp tác gọi là tebhaga
khamar, mô hình này được chánh phủ Bangladesh
áp dụng năm 1977, và năm sau (1978) giáo sư được Tổng Thống Bangladesh trao
giải thưởng về sáng kiến nông trại này. Ngoài giải thưởng Central Bank (1985)
của Bangladesh, vào năm 1987 giáo sư còn được giải thưởng cao quý nhất của đất
nước là giải Ngày Độc Lập (the Independence Day Award). Trước khi nhận
giải Nobel Hòa Bình, Giáo Sư Yunus còn được trao nhiều giải thưởng quốc tế như
giải Ramon Magsaysay (1984: Manila , Philippines ), giải Kiến Trúc Aga Khan (1989: Geneva , Thụy Sĩ), giải Khoa Học Mohamed Shabdeen (1993: Sri Lanka ),
giải Lương Thực Thế Giới của World Food Prize Foundation (1994: Mỹ).
Về cuộc đời hoạt động
không mệt mỏi của Giáo Sư Yunus để phụng sự người nghèo trên khắp thế giới, mọi
người có thể ghi nhớ ước mơ của ông: “Một
ngày nào đó con cháu chúng ta sẽ tới các viện bảo tàng để thấy đói nghèo là như
thế nào.”
Vâng, những con người
nhân bản, những chiến sĩ hòa bình chỉ mơ ước một điều, rằng nghèo đói sẽ trở
thành hiện vật cổ xưa trưng bày trong viện bảo tàng chứ không còn là thực trạng
thương đau đang xói mòn hành tinh này.
21-5-2005 /
15-10-2006
Huệ Khải
([1]) ... the
poor, once economically empowered, are the most determined fighters in the
battle to solve the population problem; end illiteracy; and live healthier,
better lives. When policy-makers finally realize that the poor are their
partners, rather than bystanders or enemies, we will progress much faster that
we do today.