CHÂN
DUNG MẸ
Mẹ là
hình bóng khắc họa và ảnh hưởng suốt đời con ra sao? Vai trò thầm lặng của mẹ
trong gia đình là thiệt thòi cho mẹ nhưng sự hy sinh đó sẽ tác động như thế nào
suốt quãng đời con sau này? Tại sao bố mẹ ngày xưa ít ly dị hơn đời nay? Những
câu hỏi tại sao và tại sao còn tiếp tục đặt ra chung quanh vấn đề cha mẹ và con
cái trong cuộc sống chung dưới mái gia đình. Qua bài viết của mình, nhà báo Mỹ BOB GREENE (sinh năm 1947) đã phần nào
trả lời những câu hỏi nói trên.
*
Trong suốt những năm từ lúc tôi chào đời cho đến khi
ba anh em chúng tôi ra riêng, má chưa bao giờ có một việc làm ăn lương. Giả dụ
như ai đó yêu cầu má viết bản sơ yếu lý lịch, mục “nghề nghiệp” sẽ để trống.
Công việc của má, như má thấy, là làm mẹ lũ chúng tôi
trọn cả thời gian. Má chọn công việc này tự nguyện.
Có tấm ảnh ba má chụp năm 1942, lúc đang tuần trăng
mật. Ba má ngồi ở một bàn trong nhà hàng, bố mặc quân phục; còn má, tôi nghĩ,
trông đẹp lắm. Hồi ấy má mới hăm ba.
Nhìn tấm ảnh, tôi bắt gặp một phụ nữ, nếu mà ở tuổi
hăm ba đúng vào thời bây giờ, người phụ nữ ấy sẽ có được vô vàn chọn lựa sẵn
dành. Mà má đâu chỉ có xinh đẹp; rõ ràng là má còn lanh lợi và hoạt bát nữa.
Tôi biết rằng nếu như trước kia má quyết định đeo đuổi sự thành đạt trong nghề
nghiệp, thì bao nhiêu cánh cửa đã mở ra đón má rồi.
Lý lịch má chứng minh điều ấy; má được đào tạo ở
trường Đại Học Wellesley,([1]) và khi tốt
nghiệp má là hội viên Hội Ái Hữu Sinh Viên Phi Beta Kappa.([2]) Quả thực má là
người thông minh nhất mà tôi biết.
Vậy mà lúc nào má cũng xác định vai trò của mình là
làm vợ và làm mẹ. Trong chốn thị thành nơi chúng tôi sống, má được trọng vọng
vì những công việc xã hội má tình nguyện làm, nhưng nếu có ai hỏi má làm gì, má
chẳng hề do dự trả lời ngay rằng má là vợ ông Robert Greene, và là mẹ của Bobby,
Debby và Timmy Greene.([3])
Tôi còn nhớ như in những lúc tan học về nhà ăn cơm
trưa. Lúc nào má cũng ở nhà, và khi ba anh em tôi bước vào qua cửa sau, má đang
dọn bàn ăn.
Tôi cho rằng đời nay nhiều phụ nữ thường thấy là việc
ấy làm uổng phí tiềm năng họ. Làm sao mà một phụ nữ thông minh, nhiều ước vọng
lại bằng lòng với việc nồi cơm trách cá cho được?
Tôi chẳng thể trả lời đâu. Nhưng, nếu như suốt những
năm tháng sau này, tôi vẫn còn cảm thấy được cái tâm trạng lúc chạy ùa qua cửa
sau và thấy má ở phòng ăn, thì cái việc bếp núc ấy ắt hẳn phải có một giá trị
hay tầm quan trọng nào chứ.
Ngày nay lẽ ra má là một người chỉ huy, một doanh
nhân hay một tác gia. Nếu như má có từng nghĩ tới những điều ấy vào những năm
1950 và 1960 thì má cũng chẳng đời nào hé môi.
Bạn bè thân thiết của tôi thời trung học cả thảy là
năm đứa, thì ba đứa đã chịu cảnh vợ chồng dắt díu nhau ra tòa. Còn bạn bè thân
thiết của ba má tôi, cả chục cặp hay hơn thế nữa, chẳng một ai ly hôn ly dị chi
hết.
Có phải hồi xưa đàn ông đàn bà yêu nhau thắm thiết
hơn chăng? Chả chắc đâu. Có phải họ đã cảm nhận được cái ý vị của sự ràng buộc
phải chung sống bên nhau, cái ý vị của sự ràng buộc mà những cuộc hôn nhân đời
nay đánh mất? Có lẽ thế.
Tôi thuộc về một thế hệ mà xét chung thì đã được
dưỡng dục trong những gia đình chung sống bên nhau, có những bà mẹ suốt ngày
thui thủi trong nhà. Và tôi chẳng thèm đánh đổi điều đó để lấy bất kỳ cái gì
khác. Nếu như má đã từ bỏ những hạnh hưởng cho riêng mình theo cái cung cách
ngần ấy năm đời má, tôi biết má không chịu từ bỏ những hạnh phúc cho Debby, hay
Timmy, hoặc cho tôi. Và nếu có bất kỳ điều chi tốt đẹp về anh em tôi, phần
nhiều sự tốt đẹp đó có được bởi vì chúng tôi có một người mẹ đã xác định công
việc của mình là làm mẹ anh em chúng tôi.
Hồi nhỏ tôi nghĩ rằng trong buồng tôi có ông kẹ hay
ma quái. Trước lúc đi ngủ, tôi thường nhờ má xua đuổi hết bọn chúng ra khỏi
buồng. Trong phần lớn cuộc đời chúng ta, trách nhiệm riêng của chúng ta chính
là xua đi những cái ma mãnh, xấu xa. Trong mấy năm ngắn ngủi đầu đời, những bà
mẹ của chúng ta có mặt để làm giùm ta công việc ấy.
Tôi nghĩ rằng nhiều phụ nữ ngày nay thường e sợ sống
đời làm mẹ. Thời thế đã thay đổi nhiều đến nỗi rằng, đối với một phụ nữ thông
minh lanh lợi, thì làm cái việc má tôi đã làm - hiến trọn đời
mình cho chồng con - dường như chẳng những trói buộc
tù túng mà lại còn hơi nguy hiểm nữa. Tôi hy vọng rằng má, khi nhìn lại đời má,
sẽ cảm thấy rằng má đã làm đúng.
Tất cả chúng ta kinh qua những thế giới của người lớn
và giả bộ rằng chúng ta đích thực chính là những kẻ trưởng thành chứ chẳng hề
là gì khác. Dẫu thế, nhiều người trong chúng ta có lần đã làm trẻ nhỏ vội vàng
chân sáo về nhà ăn bữa cơm trưa, và biết rằng có người đang chờ cơm mình. Việc
ấy xưa quan trọng mà nay cũng quan trọng, và điều hạnh phúc hơn hết trong đời
tôi đó là người phụ nữ trong tấm ảnh này đã từng chờ cơm tôi.
Huệ
Khải
19-01-1994
Theo Bob Greene, The Woman in the Photograph, 1990.