ĐIỀU
TÔI HỌC ĐƯỢC Ở MÁ
Đức
Lão Tử bảo: “Họa là chỗ dựa của phúc. - Họa hề phúc chi sở ỷ.” Câu nói thâm thúy đó phản ánh tính hai mặt
đối lập không thể tách rời của cuộc sống nhị nguyên.
Phải,
nào ai có thể hoàn toàn toại ý vừa lòng với những gì mình đang có trong đời. Xu
hướng của phần đông là chối bỏ cái hiện có để mong vọng cái muốn có. Nhưng cũng
có một số người khác chọn thái độ giáp mặt với cái hiện có, cho dẫu nó là
nghịch cảnh trái lòng, và họ chủ động tìm thấy trong chính hoàn cảnh không
thuận lợi ấy những yếu tố thuận lợi.
Thái
độ ứng xử sau rõ ràng mang tính triết lý nhân sinh, và cũng là một nghệ thuật
sống mà không phải ai ai cũng dễ dàng lãnh hội rồi áp dụng thành công cho đời
mình. Trong câu chuyện của nữ sĩ FAYE
MOSKOWITZ (sinh năm 1930), bà kể lại kinh nghiệm bản thân, cách mà bà đã tự
mình chứng thực bài học nhân sinh to tát đã sớm được mẹ truyền dạy từ khi bà còn
tấm bé.
*
Còn nhớ khi ngồi trong gian bếp của má, tôi bé quá
hai bàn chân chưa chạm tới lớp vải dày phủ sơn lót sàn để khỏi thấm nước. Trên
mặt bàn trước mặt tôi sờ sờ một dĩa thức ăn mà khi tôi chòng chọc nhìn vào,
dường như nó lại nở lớn nhiều thêm. Tôi rên rỉ: “Má ơi, con ghét món này. Con
chẳng ăn đâu.”
Má nhìn tôi, cái nhìn có lẽ đủ sức làm mềm được cái
cổ áo hồ bột cứng ngắc má đang ủi. Má bảo: “Hãy xét xem con có phước chừng nào.
Bộ con không biết bên châu Âu trẻ con đang chết đói hả?”
Má được dưỡng dục với đức tin rằng cho dù hoàn cảnh
mình tồi tệ đến đâu, thì ở nơi nào đó lại đang có người thậm chí còn thảm hại
hơn thế nữa. Có lẽ má cảm thấy rằng than van sẽ chuốc thêm tai họa xấu hơn.
“Hãy xét xem con có phước chừng nào.” Điệp khúc ấy của má cứ khiến tôi giận dữ.
Chị họ tôi tên Leah cũng sống với tín điều y hệt má.
Nhiều năm trước trong một lần gia đình sum họp, chị Leah kể về ngôi làng cũ bên
Nga.
Chị bảo chúng tôi: “Làng quê êm đềm có dòng sông xinh
đẹp đầy cá. Nhà của mình rộng rãi và tất cả bà con dòng họ đều sống gần nhau.”
Nghịch cái trợ thính trong tay, bác Phil làu bàu: “Lại mơ mộng. Đến mùa xuân
sình lầy khắp nơi. Chả có quái gì để ăn... Sao không kể luôn?”
Lần sau cùng tôi gặp Leah, chị đang nằm dài trên
trường kỷ, suy kiệt vì phải chịu hóa trị. Bắt gặp cây gậy dưới chân chị, tôi
hỏi xem chị có còn đi được không. “Dĩ nhiên là được.” Chị bảo thế và gượng ngồi
dậy. Rồi rất chậm chạp, chị vói lấy cây gậy, tập tễnh đi vài bước. Chị bảo:
“Xem nè, lẽ ra thì phải tệ hơn đấy. Tạ ơn Trời là chị chưa tàn phế.”
Làm sao mà những người như chị Leah và má tôi luôn
luôn nhìn vào mặt lạc quan của cuộc sống, cho dẫu phần lạc quan ấy rất mỏng
manh? Nếu bảo thời thơ ấu của chị Leah kinh hãi đến mức bây giờ cái gì so sánh
lại cũng thấy tốt đẹp, thế thì giản đơn quá. Đối với những người không chịu để
cho đời đánh bại như chị Leah, họ thấy quanh mình còn nhiều người bất hạnh hơn.
Trong nhiều năm tôi là một trong những kẻ thua thiệt
trên đời. Năm tôi mười bảy, má mất đi để lại cho tôi hai em trai nhỏ dại và một
người cha không cam chịu cảnh góa vợ nên đã cưới một bà không phù hợp. Khao
khát thoát ly, xong trung học là tôi liền lấy chồng.
Trong căn nhà nhỏ hẹp nơi ba đứa con đầu tiên của tôi
chào đời, tôi đã than vãn, ca cẩm với các bà mẹ trẻ khác. Cả đám đàn bà không
sao thấy được số phận của mình xa hơn những tấm tã nhếch nhác và mớ chén dĩa
bẩn thỉu. Thỉnh thoảng tôi nhủ lòng rằng may mắn thay tôi còn có người chồng
biết quên mình và đàn con khỏe mạnh, nhưng việc ấy chẳng làm cho cảnh khổ của
tôi vơi bớt.
Khi má chồng tôi góa bụa và dọn đến ở chung, tôi đã
liệt bà vào danh sách những gánh nặng đời tôi. Quyết tâm cho bà thấy tôi là vợ
đảm mẹ hiền cỡ nào, tôi cáu kỉnh cọ rửa xoong nồi trong lúc người phụ nữ buồn
bã kia đang muốn giúp tôi lại chẳng hề làm gì hết.
Rồi tôi kịp thấy rằng đôi bàn tay thiện chí của má
chồng có thể giải tỏa cho tôi khỏi giỏ đồ ủi vô tận. Khi bà nội đưa cháu đi
công viên, tôi có thể đọc một quyển sách hay gọi được một cú điện thoại mà
không bị quấy rầy làm cho gián đoạn.
Về sau, bà nội cháu còn giúp tôi có điều kiện tham
gia vào công tác xã hội tình nguyện và hoạt động chính trị. Khi làm được điều
gì đó cho tình trạng của cái thế giới mà bấy lâu nay tôi cứ mãi kêu ca than
vãn, tôi đã có được cái nhìn cuộc đời tích cực hơn. Dần dần tôi nhận thức rằng
tôi có thể soi rọi đời tôi ở một góc độ khác. Khi phải đối mặt với nghịch cảnh,
tôi đã có thể hỏi: “Đâu là mặt tốt trong đó?” Dĩ nhiên không phải bao giờ thái
độ ứng xử này cũng hiệu quả. Đôi khi lòng tin của tôi chao đảo, lung lay nhưng
tôi hầu như luôn tìm kiếm được những gì mang tính khả thi thay vì những rào
ngăn bệ chắn cản đường.
Má chồng sống với chúng tôi hơn ba mươi năm cho mãi
tới ngày qua đời. Bốn đứa con tôi yêu thương bà nội rất mực. Bọn trẻ nhớ bà là
người luôn luôn có chỗ cất giấu những viên kẹo sô-cô-la tròn tròn, là người để
cho các cháu thức khuya xem ti vi và quan trọng hơn hết, bà là người không bao
giờ mách lại những việc của các cháu.
Nhớ lại một chút hồi con tôi là Shoshana và chồng là
Peter cùng với bé gái Helen vừa lên sáu về sống chung với vợ chồng tôi mấy
tháng. Trong căn nhà vốn đã quen cảnh hai ông bà im ắng, đột ngột dội ầm ầm
tiếng cửa dập mạnh, và những ngọn đèn bỏ quên không ai tắt. Thay vì đi ra ngoài
ăn khuya hay bốc đồng đi đến một nhà hàng ở khu lân cận, tôi lại một lần nữa
phải lo toan trù tính cho các bữa ăn. Chúng tôi lúc nào cũng cạn hết bánh mì và
sữa.
Nhưng trong đó có mặt tốt của nó: Tôi nhận ra con rể
mình quả là người chồng tốt, người cha hiền biết bao. Đúng rồi, đành rằng phải
nấu ăn nhiều bữa hơn, nhưng cũng có thêm nhiều bàn tay giúp việc dọn rửa, và
con rể tôi lại chà sạch xoong nồi còn bóng hơn cả tôi nữa. Shoshana và tôi đã
gạt qua một bên những bất đồng xưa cũ giữa hai má con và sát cánh bên nhau làm
việc nhịp nhàng, tự nhiên như nhịp đập con tim. Đánh đổi lấy sự riêng tư và cô
đơn, vợ chồng tôi nhận được tặng vật là sự có mặt của đứa cháu ngoại trong mảnh
đời thường ngày của hai chúng tôi.
Phải chăng con đang xem xét những ân phước con đang
hạnh hưởng? Phải rồi, má ơi, má có thể đoan chắc điều này.
Huệ
Khải
26-7-1999
Theo Faye
Moskowitz, Adding Up the Good Things, 1998.